Bản án 19/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LỘ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 19/2020/HSST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2020/TLST - HS ngày 01/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST – HS ngày 09/6/2020 đối với bị cáo:

Lê Thị Ngọc T, sinh ngày 25/01/1976 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn Tân Định, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Lê Văn N, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1949, hiện đều trú tại: Khu phố X, thị trấn Cam Lộ, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; có chồng Đinh Quang S, sinh năm 1973, trú tại: Thôn Y, xã CT, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/3/2020 cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng:

- Chị Dương Thị Thanh H, sinh năm 1976, địa chỉ: Khu phố Y, thị trấn CL, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Trương Nhật C, sinh năm 1989, địa chỉ: Khu phố Z, phường 3, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Bà Võ Thị H, sinh năm 1974, địa chỉ: Khu phố K, phường AĐ, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ ngày 23/03/2020, Lê Thị Ngọc T đón xe ô tô khách biển kiểm soát 74B-004.23 do Trương Nhật C, sinh năm 1989, trú tại Khu phố Z, Phường 3, thị xã Quảng Trị điều khiển đi từ Ngã ba Cùa lên thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa để mua hàng hóa về bán kiếm lời. Sau khi đến bến xe Lao Bảo, Lê Thị Ngọc T gặp 03 người phụ nữ lạ mặt (không rõ lai lịch) hỏi mua 2.000 bao thuốc lá hiệu JET với giá 30.000.000 đồng để về bán lại. Lê Thị Ngọc T xếp 1.780 bao thuốc JET vào trong 07 thùng giấy cattông, dùng băng keo dán kín và dùng bút dạ ghi chữ "T" ở bên ngoài, 220 bao thuốc JET còn lại T bỏ vào 02 bao nilong màu đen bọc bên ngoài 01 bao nilong màu đỏ. Sau đó, Lê Thị Ngọc T quay lại bến xe gặp Trương Nhật C để đón xe đi về Cam Lộ, đồng thời nói mở sẳn cửa xe để xếp hàng, thì C đồng ý rồi đi ăn sáng. Lê Thị Ngọc T tự mình xếp 06 thùng cattong chứa thuốc JET vào hàng ghế sau cùng, 01 thùng cattong chứa thuốc JET vào cốp sau xe ô tô biển kiểm soát 74B-004.23, còn 02 bao nilong chứa thuốc JET T xách theo bên người ngồi trên xe. Đến khoảng 09 giờ 30 cùng ngày, khi Trương Nhật C điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 74B-004.23 đi đến Km 22 Quốc lộ 9 thuộc địa phận xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Quảng Trị phối hợp với Công an huyện Cam Lộ dừng phương tiện kiểm tra hành chính phát hiện, thu giữ 2.000 bao thuốc lá JET nói trên.

Tại Bản kết luận giám định số 284/KLGĐ-PC09 ngày 27/03/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu mang nhãn hiệu JET, loại 20 điếu/bao gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu JET, được sản xuất ở nước ngoài.

Ngoài tra, trong vụ án này có Trương Nhật C là người điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 74B-004.23 chở Lê Thị Ngọc T và 2.000 bao thuốc JET. Tuy nhiên, Trương Nhật C không biết việc T tự ý bỏ 2.000 bao thuốc JET lên xe và trong quá điều khiển xe ô tô C không biết trên xe ô tô có chở thuốc JET cho đến khi lực lượng chức năng phát hiện và bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của Trương Nhật C không cấu thành tội phạm.

Đối với 03 người phụ nữ lạ mặt bán thuốc JET cho T, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cam Lộ đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không xác minh được địa chỉ, lai lịch nên chưa đủ cơ sở xử lý. Khi nào điều tra, xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ: 2.000 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet. Mẫu vật hoàn trả sau giám định 1.800 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet; 01 Xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, biển kiểm soát 74B-004.23; 01 Giấy phép lái xe mang tên Trương Nhật C; 01 Giấy biên nhận thế chấp số 75/PGDTC ngày 01/10/2019; 01 Giấy chứng thực y sao bản chính giấy đăng ký xe ô tô BKS 74B-004.23 ngày 24/08/2015; 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 0685022; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 44×33×23 cm bên ngoài có ký hiệu “Bánh mặt trời” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×30×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Hảo Hảo” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 49×24×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Trái cây” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×30 cm bên ngoài có ký hiệu “Gạo sữa” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 48×24×41 cm bên ngoài có ký hiệu “Jeje beautie” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ;

01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×32 cm bên ngoài có ký hiệu “Ellse” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×25×39 cm bên ngoài có ký hiệu “TOPPOINT” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Bao nilong màu đỏ kích thước 56×44 cm, bên ngoài có dòng chữ “AGRIBANK”, đã qua sử dụng; 02 Bao nilong màu đen kích thước 25×36 cm;

Tại Cáo trạng số 20/CT – VKSCL ngày 29/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáo Lê Thị Ngọc T về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị giữ nguyên bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Thị Ngọc T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”;

- Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Thị Ngọc T từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách gấp đôi. Xử phạt bổ sung: 20 đến 25 triệu đồng.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 1.800 bao thuốc lá còn lại sau giám định là vật chứng cấm lưu hành;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 Thùng giấy cattong có kích thước 44×33×23 cm bên ngoài có ký hiệu “Bánh mặt trời” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×30×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Hảo Hảo” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 49×24×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Trái cây” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×30 cm bên ngoài có ký hiệu “Gạo sữa” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 48×24×41 cm bên ngoài có ký hiệu “Jeje beautie” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ;01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×32 cm bên ngoài có ký hiệu “Ellse” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×25×39 cm bên ngoài có ký hiệu “TOPPOINT” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Bao nilong màu đỏ kích thước 56×44 cm, bên ngoài có dòng chữ “AGRIBANK”, đã qua sử dụng; 02 Bao nilong màu đen kích thước 25×36 cm là những vật chứng không có giá trị sử dụng.

- Về án phí: đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến có ý kiến gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Trình bày lời nói sau cùng, bị cáo Lê Thị Ngọc T mong Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình khó khăn để xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Sáng ngày 23/3/2020, bị cáo Lê Thị Ngọc T đón xe lên Lao Bảo mua 2.000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet của 03 người phụ nữ không quen biết với mục đích đưa về Cam Lộ bán kiếm lời. Bị cáo xếp số hàng hóa lên xe ô tô biển kiểm soát 74B-004.23 do Trương Nhật C điều khiển về đến địa bàn huyện Cam Lộ thì bị bắt giữ. Tại Bản kết luận giám định số 284/KLGĐ-PC09 ngày 27/03/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 2000 (hai nghìn) bao thuốc lá điếu mang nhãn hiệu JET, loại 20 điếu/bao gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu JET, được sản xuất ở nước ngoài. Theo quy định tại khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây...thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: b, Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao”. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi nên vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với một số hàng hóa, ngành nghề cấm kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo cấu thành tội“Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Lê Thị Ngọc T thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo nhận thức được việc vận chuyển thuốc lá điếu là trái quy định pháp luật nhưng vì hám lợi, nên bị cáo vẫn thực hiện. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình hoàn cảnh khó khăn do đó xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ để giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung 20 triệu đồng đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

- Số bao thuốc lá còn lại sau giám định 1.800 bao là vật chứng cấm lưu hành do đó cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- 01 Thùng giấy cattong có kích thước 44×33×23 cm bên ngoài có ký hiệu “Bánh mặt trời” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×30×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Hảo Hảo” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 49×24×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Trái cây” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×30 cm bên ngoài có ký hiệu “Gạo sữa” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 48×24×41 cm bên ngoài có ký hiệu “Jeje beautie” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ;01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×32 cm bên ngoài có ký hiệu “Ellse” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×25×39 cm bên ngoài có ký hiệu “TOPPOINT” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Bao nilong màu đỏ kích thước 56×44 cm, bên ngoài có dòng chữ “AGRIBANK”, đã qua sử dụng; 02 Bao nilong màu đen kích thước 25×36 cm là những vật chứng không có giá trị sử dụng, áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Ngọc T phạm tội "Buôn bán hàng cấm”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Thị Ngọc T 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/6/2020). Phạt tiền bổ sung: 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đối với số tiền nộp ngân sách nhà nước cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy:

- 1.800 bao thuốc lá Jet - 01 Thùng giấy cattong có kích thước 44×33×23 cm bên ngoài có ký hiệu “Bánh mặt trời” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×30×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Hảo Hảo” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 49×24×24 cm bên ngoài có ký hiệu “Trái cây” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×30 cm bên ngoài có ký hiệu “Gạo sữa” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 48×24×41 cm bên ngoài có ký hiệu “Jeje beautie” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ;01 Thùng giấy cattong có kích thước 41×33×32 cm bên ngoài có ký hiệu “Ellse” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Thùng giấy cattong có kích thước 40×25×39 cm bên ngoài có ký hiệu “TOPPOINT” và có chữ “T” ghi bằng bút dạ; 01 Bao nilong màu đỏ kích thước 56×44 cm, bên ngoài có dòng chữ “AGRIBANK”, đã qua sử dụng; 02 Bao nilong màu đen kích thước 25×36 cm, đã qua sử dụng.

(Các tài sản trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cam Lộ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/6/2020).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Thị Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:19/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lộ - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về