Bản án 19/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Trương Huy X; Sinh ngày 15/11/1989; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: Số 7/11, đường , Khóm 2, Phường 6, tp S, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nam. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Trương Văn H, sinh năm 1943 (chết) và bà: Võ Thị Kim A, sinh năm 1953; Anh chị em ruột: có 07 người, lớn nhất sinh năm 1975, nhỏ nhất sinh năm 1993; Vợ, con: chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18 tháng 8 năm 2019 đến ngày 27 tháng 8 năm 2019, sau đó ra áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27 tháng 8 năm 2019 đến ngày 27 tháng 3 năm 2020. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty S

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh N; Địa chỉ: 450/28 đường D, Phường 01, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh

Người đại diện theo ủy quyền: Trần Ngọc C, sinh năm 1932; Địa chỉ: 637/13/1 đường Q, Phường 11, Q. V, TP. Hồ Chí Minh (có mặt)

 - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty S: Ông Nguyễn Đăng V là Luật sư của Văn phòng Luật sư LS, thuộc Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh (có mặt);

2. Đặng Thị N, sinh năm 1976; (vắng mặt)

3. Trịnh H, sinh năm 1978; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: 06 đường Hàm Nghi, Khóm 1, Phường 1, huyên S, tỉnh Sóc Trăng

4. Đặng Hoàng L, sinh năm 1978; Địa chỉ: ấp Tân Thạnh Tây, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang (có mặt) - Người làm chứng:

1. Võ Thị Thúy Y, sinh năm 1990; Địa chỉ: Số 86 đường M, Phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ nơi làm việc: Số 29 Lê Duẩn, Phường 3, huyên S, tỉnh Sóc Trăng (Chi nhánh Công ty S) (có mặt)

2. Danh B, sinh năm 1986; Địa chỉ nơi làm việc: Số 29 Lê Duẩn, Phường 3, huyên S,tỉnh Sóc Trăng (Chi nhánh Công ty S) (có mặt)

3. Trần Văn U, sinh năm 1978; Địa chỉ nơi làm việc: Số 29 Lê Duẩn, Phường 3, huyên S, tỉnh Sóc Trăng (Chi nhánh Công ty S) (có mặt)

4. Quách Việt E, sinh năm 1972; Địa chỉ nơi làm việc: Số 29 Lê Duẩn, Phường 3, huyên S, tỉnh Sóc Trăng (Chi nhánh Công ty S) (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Huy X, sinh năm 1989 là nhân viên bốc dỡ hàng hóa cho Công ty S - Chi nhánh Sóc Trăng số 29, đường Lê Duẫn, khóm 7, phường 3, huyên S.

Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 18 tháng 8 năm 2019, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại Công ty S - Chi nhánh Sóc Trăng số 29, đường Lê Duẫn, khóm 7, phường 3, huyên S có dấu hiệu tàng trữ, vận chuyển hàng cấm nên Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế Công an huyên S tiến hành kiểm tra, phát hiện bên trong 04 thùng giấy chứa 4.496 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại, trong đó 1.800 bao hiệu JET, 1.946 bao hiệu HERO, 750 bao hiệu SCOTT nên đã thu giữ và niêm phong.

Trương Huy X khai nhận toàn bộ số thuốc lá nhập lậu bắt quả tang là của khách hàng ở thành phố Cần Thơ gửi từ Công ty S - Chi nhánh thành phố Cần Thơ tại số 01, đường Trần Văn Giàu, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ về cho tiệm tạp hóa Diễm tại số 06 đường Hàm Nghi, khóm 1, phường 1, huyên S do bà Đặng Thị N và ông Trịnh Hửu Sang làm chủ. Trước đó vào khoảng cuối năm 2018, bà Nguyễn Thị Kim Vui cư trú tại thành phố Cần Thơ có xuống Sóc Trăng gặp trực tiếp X đặt vấn đề khi nào có các thùng hàng từ thành phố Cần Thơ gửi về Sóc Trăng, thì sẽ gọi điện thoại cho X để nhờ X vận chuyển và X đồng ý.

Tại bản Cáo trạng số 20/CT-VKS.TPST ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyên S đã truy tố bị cáo Trương Huy X về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trương Huy X phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”; đề nghị áp dụng điểm e Khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Xử lý vật chứng: Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 1.800 (một ngàn tám trăm chẵn) bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET;

- 1946 (một ngàn chín trăm bốn mươi sáu) bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO;

- 750 (bảy trăm năm mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu SCOTT;

- 02 (hai) thùng giấy phía ngoài có chữ SENKO, bên ngoài có dáng băng keo màu vàng;

- 02 (hai) thùng giấy dạng hình trụ, bên ngoài có dán băng keo màu vàng; + Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Tiền Việt Nam: 3.000.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A9, màu đen, có sim số 0947.955.199 và số 0919.579.222 + Trả lại cho Công ty S:

- 01 (một) đầu lưu trữ dữ liệu camera ghi hình tại Công ty S Chi nhánh Sóc Trăng, nhãn hiệu SEA VISIONR model: SDVR-VW8208NP, POWER: 12V;

- 01 (một) đầu lưu trữ dữ liệu camera ghi hình tại Công ty S Chi nhánh Cần Thơ, nhãn hiệu SEA VISION R model: SDVR-VW8316HP, POWER: 12V;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty S thống nhất về tội danh đối với bị cáo, làm rõ trách nhiệm cá nhân của bị cáo, không chấp hành đúng quy định của Công ty; thống nhất hướng xử lý giao trả lại tài sản cho Công ty, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty.

Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2]. Đối với việc vắng mặt bà Đặng Thị N và ông Trịnh H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai làm rõ trong hồ sơ vụ án, không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Trương Huy X khai nhận: Vào khoảng cuối năm 2018, bị cáo đồng ý nhận vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cho bà Nguyễn Thị Kim Vui tại thành phố Cần Thơ gửi về Sóc Trăng, địa điểm giao hàng được bà Vui hoặc ông Nguyễn Minh Quang cháu bà Vui sẽ gọi điện thoại cho bị cáo để bị cáo vận chuyển đến địa điểm nhận hàng. Vào ngày 18 tháng 8 năm 2019, bị cáo vận chuyển 04 thùng giấy bên trong chứa 4.496 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại, gồm: 1.800 bao hiệu JET, 1.946 bao hiệu HERO, 750 bao hiệu SCOTT từ Công ty S - Chi nhánh Sóc Trăng số 29, đường Lê Duẫn, khóm 7, phường 3, huyên S đến Tiệm tạp hóa Diễm tại số 06 đường Hàm Nghi, khóm 1, phường 1, huyên S thì vào khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, bị cáo bị Công an huyên S bắt quả tang tại Công ty. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo vận chuyển 4.496 bao thuốc lá điếu nhập lậu thuộc danh mục hàng cấm. Nên Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trương Huy X phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải với hành động tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 3.000.000 đồng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5]. Đối với ông Nguyễn Minh Quang, bà Nguyễn Thị Kim Vui là người thuê X vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu. Nên Hội đồng xét xử đề nghị Cơ quan điều tra Công an huyên S tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

[6]. Đối với ông Đặng Hoàng L là nhân viên nhận hàng hóa do khách gửi ở Công ty S chi nhánh Cần Thơ, L thiếu kiểm tra 04 thùng giấy do ông Nguyễn Minh Quang gửi hàng hóa, không biết bên trong chứa bao nhiêu bao thuốc lá nhập lậu và không được hưởng lợi ích. Hành vi của Đặng Hoàng L đã vi phạm quy định nhận gửi hàng hóa, chưa đủ yêu tố chịu trách nhiệm hình sự. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Đối với bà Đặng Thị N và ông Trịnh H không thừa nhận việc toàn bộ số lá điếu nhập lậu mà bị cáo khai giao cho bà Diễm, ông Sang nên chưa đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm đối với bà Đặng Thị N và ông Trịnh H.

[8]. Xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Đối với vật chứng là hàng cấm, vật không giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy:

- 1.800 (một ngàn tám trăm chẵn) bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET; Đối với điện thoại của bị cáo dùng vào việc liên lạc giao nhận hàng cấm, tiền do thu lợi bất chính mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A9, màu đen, có sim số 0947.955.199 và số 0919.579.222;

- Tiền Việt Nam: 3.000.000 đồng;

[9]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp cho Công ty S về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả mà bị cáo gây ra.

[10].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trương Huy X;

Căn cứ vào điểm a, c, khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố Bị cáo Trương Huy X phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. 

2. Xử phạt bị cáo Trương Huy X 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án, nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 18-8-2019 đến ngày 27-8-2019.

3. Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 1.800 (một ngàn tám trăm chẵn) bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET; - 02 (hai) thùng giấy dạng hình trụ, bên ngoài có dán băng keo màu vàng;

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: Tiền Việt Nam: 3.000.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A9, màu đen, có sim số 0947.955.199 và số 0919.579.222 + Trả lại cho Công ty S:

- 01 (một) đầu lưu trữ dữ liệu camera ghi hình tại Công ty S Chi nhánh Sóc Trăng, nhãn hiệu SEA VISIONR model: SDVR-VW8208NP, POWER: 12V;

- 01 (một) đầu lưu trữ dữ liệu camera ghi hình tại Công ty S Chi nhánh Cần Thơ, nhãn hiệu SEA VISIONR model: SDVR-VW8316HP, POWER: 12V;

4. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được cấp tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về