Bản án 19/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn B, sinh năm 1960 tạixã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Trú tại:Thôn T,xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; con ông Phạm Văn T ( đã chết) và bà Phạm Thị Ch ( đã chết). Có vợ Phạm Thị P, có 3 con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1986; Tiền án: Không. Tiền sự: không.

Về nhân thân:

- Ngày 16/4/2007 Chủ tịch UBND huyện N ra quyết định số 804/QĐ- UBND thời gian 24 tháng.

- Năm 2005 Công an huyện N ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, mức phạt 1.500.000 đồng, ngày 25/5/2005 đã chấp hành xong quyết định xử phạt.

- Ngày 08/8/2012 Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hòa Bình xử phạt 44 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 7/4/2015 đã chấp hành xong bản án.

- Năm 2016 Phòng PC 47 Công an tỉnh Ninh Bình xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 14/01/2020, chuyển tạm giam ngày 17/01/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Ph, sinh năm 1959. Trú tại: Thôn T,xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Những người làm chứng:

- Anh Phạm Văn L, sinh năm 1985. Vắng mặt

- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1962. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn B là người nghiện ma túy, khoảng 08 giờ ngày 07/01/2020B đi nhờ xe của một người không quen biết từ nhà đến thị trấnN, huyện N để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đi đến khu vực Bến xe khách N thuộc địa phận phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình thì Phạm Văn B xuống xe đi bộ đã gặp 01 người nam giới (Bích không biết tên, tuổi, địa chỉ), trông giống người nghiện ma túy. Tại đây Phạm Văn B hỏi mua ma túy thì người nam giới đồng ý bán nênB đã lấy 700.000 đồng đưa cho người nam giới. Người này cầm tiền rồi đưa lại cho Phạm Văn B 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong là chất bột dạng cục mầu trắng, B mở ra kiểm tra xác định đúng là Heroine nên đã gói lại và cầm gói cất dấu trong người rồi đi nhờ xe về nhà. Sau khi về đến nhà mình B đã sử dụng dao lam chia gói Heroine thành 16 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng rồi đem cất giấu ở tất chân bên trái của B. Từ ngày 07/01/2020 đến ngày 14/01/2020 Phạm Văn B đã sử dụng hết 05 gói Heroine, còn 11 gói Heroine thì B vẫn tiếp tục cất giấu ở tất chân bên trái đang đi.

Khoảng 10 giờ ngày 14/01/2020 Phạm Văn B đang đứng ở sân nhà mình thì gặp tổ Công tác Công an xã V phối hợp với Công an xã P và Công an xã Th tiến hành triệu tập B lên UBND xã V làm việc.Phạm Văn B biết không thể che giấu được hành vi cất dấu ma túy trái phép trong người nên tự giác giao nộp 11 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc mầu vàng cất dấu trong chiếc tất chân bên trái B đang đi. Phạm Văn B khai nhận là ma túy loại Heroine mua về sử dụng cho bản thân, đồng thời giao nộp 01 dao lam nhãn hiệu Croma; 01 mảnh giấy bạc mầu vàng và số tiền 1.290.000 đồng.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 11 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng thu giữ của Phạm Văn B có tổng khối lượng 0,43 gam ký hiệu từ M1-M11 để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 57/KLGĐ-PC09-MT ngày 17/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M1- M11 gửi giám định có khối lượng 0,4270 (Không phẩy bốn nghìn hai trăm bẩy mươi ) gam là ma túy, loại Heroine.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 57/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình; Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Bị cáo không khiếu nại gì về kết luận giám định số 57/KLGĐ-PC09-MT ngày 17/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình.

Tại bản cáo trạng số 20/CT-VKSNQ-HS ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáoPhạm Văn B về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 14/01/2020. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy tòan bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 57/KLGĐ-PC09-MT củaPhạm Văn B; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy bạc mầu vàng, 01 chiếc dao lam kim loại nhãn hiệu Croma.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số 57/KLGĐ-PC09-MT ngày 17/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định: Ngày 07/01/2020, để có ma túy sử dụng cho bản thân Phạm Văn B đã có hành vi mua ma túy là hêroine của người đàn ông không quen biết với giá 700.000 đồng, về nhà bị cáo dùng dao lam chia nhỏ gói ma túy mua được thành 16 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng cất giấu trong người. Trong thời gian từ ngày 07/01/2020 đến ngày 14/01/2020Phạm Văn B đã lấy ra và sử dụng hết 05 gói heroine cho nhu cầu bản thân, còn lại 11 gói hêroine bị cáo vẫn cất giấu ở tất chân bên trái của mình đang đi. Khi được Công an xã V và Công an xã Th, huyện N triệu tập lên UBND xã V làm việc, biết không thể che dấu hành vi đang cất dấu trái phép 11 gói Heroine có khối lượng được giám định là 0.4270 gam, bị cáo đã tự nguyện giao nộp cho Công an.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy: Hành vi tàng trữ 11 gói Heroine có khối lượng 0,4270 gam nhằm mục đích sử dụng cho bản thân của bị cáo là cố ý, tính chất tội phạm là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc quản lý các chất ma túy. Xét bản thân bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ Heroine của mình bị Nhà nước cấm. Bị cáo nhận thức được nghiện ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm mà cộng đồng đang ra sức lên án và loại trừ bởi ma túy ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến kinh tế, sự phát triển nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và là con đường lây nhiễm HIV phổ biến nhất hiện nay. Đồng thời gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: Lừa đảo, trộm cắp…Nhận thức được hành vi bị pháp luật cấm và tác hại to lớn của ma túy như vậy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc như vậy mới có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, răn đe phòng ngừa tội phạm chung cũng như giúp bị cáo có thời gian cải tạo rèn luyện mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi mình đã thực hiện, bị cáo tự giác giao nộp ma túy cho Công an trước khi bị phát hiện đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Từ những nhận định trên xét thấy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán heroine cho Phạm Văn B, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người này nên không đủ căn cứ để giải quyết trong vụ án.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy tàng trữ nhằm sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Mặt khác bị cáo thuộc gia đình hộ cận nghèo. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về xử lý vật chứng:

Đối với toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 17/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy bạc mầu vàng, 01 chiếc dao lam kim loại nhãn hiệu Croma. Xét đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với số tiền 1.290.000 thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra xác định đây là số tiền bà Phạm Thị Ph (vợ bị cáo) đưa cho bị cáo đi sắm tết cho gia đình, không liên quan đến việc phạm tội. Vì vậy Cơ quan điều tra đã trả cho bà Ph là phù hợp.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người cao tuổi, thuộc gia đình hộ cận nghèo, vì vậy theo quy định tại Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH 

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 14/01/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 17/KLGĐ-PC09-MT; 01 phong bì niêm phong các vỏ gói và phong bì niêm phong cũ; 01 mảnh giấy bạc mầu vàng, 01 chiếc dao lam kim loại nhãn hiệu Croma.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí: Áp dụng Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về