Bản án 19/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 19/2020/HS-PT NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 209/2019/TLPT-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T; do có kháng cáo của các bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

- Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm: 1963, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp XĐ, xã PM, huyện PT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N (đã chết) và bà: Nguyễn Thị C1; vợ: Tô Thị C2, con: 03 người; tiền án, tiền sự: Không; khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú ngày: 19/6/2019; bị cáo tại ngoại có mặt.

2. Họ và tên: Cao Văn G, sinh ngày: 01/01/1986, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp TM, xã PM, huyện PT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cao Văn H và bà: Tô Thị N1; vợ: Nguyễn Thị N2, con: 01 người; tiền án, tiền sự: Không; khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú ngày: 19/6/2019; bị cáo tại ngoại có mặt.

3. Họ và tên: Bùi Thị T, sinh năm: 1976, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp PT, xã PM, huyện PT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn L (đã chết) và bà: Tô Thị T1 (đã chết); chồng: Lương Văn Đ (đã ly hôn, sống như vợ chồng với Nguyễn Văn C), con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không; khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú ngày: 19/6/2019; bị cáo tại ngoại có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Cao Văn G: Luật sư Lê Anh Tuấn, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng tháng 10/2018 đến ngày 22/02/2019, Nguyễn Văn C và Bùi Thị T dùng điện thoại KECHAODA, số điện thoại 0942733606 và thẻ nhớ để bán số đề rồi ôm phơi. Trong khoảng thời gian bán số, Nguyễn Văn C và Bùi Thị T bán số đề cho Cao Văn G, Thạch Văn C3, Nguyễn Thị P, Đặng Ánh E, Trần Thanh T2, Bùi Thị H1, Đỗ Thị H2, Phạm Ly K, Huỳnh Thị N3, Võ Tài N4, Trần Văn H3, Đinh Văn T3, Nguyễn Ngọc N5, Trần Thanh T4, Nguyễn Thanh T5, Nguyễn Văn T6 và Nguyễn Thị D.

Tỷ lệ ăn thua, cách tính tiền đối với người mua đài Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Bình Thuận, An Giang, Trà Vinh, Bình Phước, Hậu Giang, Đà Lạt, Kiên Giang như sau: Số đầu đuôi mua 1.000 đồng thu 750 đồng, 800 đồng hoặc 1.000 đồng, trúng được 70.000 đồng; số lô 02 con mua 1.000 đồng thu 14.500 đồng, 15.000 đồng hoặc 16.000 đồng, trúng được 80.000 đồng; số lô 03 con mua 1.000 đồng thu 14.500 đồng, 15.000 đồng hoặc 16.000 đồng, trúng được 600.000 đồng; số đá 02 con mua 1.000 đồng thu 29.000 đồng, 30.000 đồng hoặc 32.000 đồng, trúng 600.000 đồng.

Tỷ lệ ăn thua, cách tính tiền đối với người mua đài Hà Nội như sau: Số đầu mua 1.000 đồng thu 3.000 đồng hoặc 4.000 đồng, trúng được 70.000 đồng; số đuôi mua 1.000 đồng thu 750 đồng, 800 đồng hoặc 1.000 đồng, trúng được 70.000 đồng; số lô 02 con mua 1.000 đồng thu 22.000 đồng, 23.000 đồng hoặc 24.000 đồng, trúng được 80.000 đồng; số đá 02 con mua 1.000 đồng thu 44.000 đồng, 46.000 đồng hoặc 48.000 đồng, trúng 600.000 đồng.

Qua điều tra chứng minh được các ngày 16, 18 và 22/02/2019, Nguyễn Văn C và Bùi Thị T bán số đề cụ thể như sau:

- Ngày 16/02/2019, Nguyễn Văn C bán số cho Cao Văn G đài Hậu Giang với số tiền là 1.015.000 đồng. Qua đối chiếu kết quả xổ số, số lô 27 trúng 70.000 đồng = 5.600.000 đồng. Như vậy tổng số tiền tham gia đánh bạc là 6.615.000 đồng.

- Ngày 18/02/2019, Nguyễn Văn C kêu Bùi Thị T nghe điện thoại đồng ý bán số đề cho Cao Văn G đài Cà Mau với số tiền 6.710.000 đồng. Qua đối chiếu kết quả xổ số, số 51 đầu trúng 700.000 đồng = 49.000.000 đồng, số lô 639 trúng 80.000 đồng = 48.000.000 đồng. Như vậy tổng số tiền tham gia đánh bạc là 103.710.000 đồng.

- Ngày 22/02/2019, Nguyễn Văn C và Bùi Thị T bán cho Thạch Văn C3, Nguyễn Thị P, Đặng Ánh E, Trần Thanh T2, Bùi Thị H1, Đỗ Thị H2, Phạm Ly K, Huỳnh Thị N3, Võ Tài N4, Trần Văn H3, Đinh Văn T3, Nguyễn Ngọc N5, Trần Thanh T4, Nguyễn Thanh T5, Nguyễn Văn T6 và Nguyễn Thị D, đài Trà Vinh với số tiền 9.986.000 đồng; đài Hà Nội với số tiền 5.778.000 đồng. Qua đối chiếu kết quả xổ số đài Trà Vinh, số 80 đuôi trúng 20.000 đồng = 1.400.000 đồng; số lô 67 trúng hai lô, lô 01 trúng hai lô, lô 11, 20, 40, 69 trúng 73.000 đồng = 5.840.000 đồng, như vậy số tiền tham gia đánh bạc là 17.226.000 đồng; đài Hà Nội số lô 30, 80 trúng 10.000 đồng = 800.000 đồng, số tiền tham gia đánh bạc là 6.578.000 đồng. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 23.804.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019, của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân quyết định: Các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T phạm tội "Đánh bạc".

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Văn C 03 năm 09 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Cao Văn G 03 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Bùi Thị T 02 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03 tháng 12 năm 2019, các bị cáo Nguyễn Văn C, Bùi Thị T có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do, không tiền án, tiền sự; quá trình giải quyết bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo C và bị cáo T thừa nhận có bán số đề như án sơ thẩm đã xử, nhưng cho rằng không bán các con số 51, 639 cho bị cáo G trúng số tiền như án sơ thẩm kết luận. Từ đó yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo chỉ phạm tội ở khoản 1 không phải ở khoản 2.

Ngày 03 tháng 12 năm 2019, Cao Văn G có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do, không tiền án, tiền sự; gia đình khó khăn là lao động chính trong gia đình; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo G khai không có mua và trúng các con số 51, 639 như án sơ thẩm xác định, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 05 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 01/QĐ-VKS, kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân về hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị T. Đề nghị cấp phúc thẩm xét xử theo hướng không áp dụng khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo T lên 03 năm tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân; sửa bản án sơ thẩm số: 27/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân về hình phạt; phạt bị cáo Bùi Thị T 03 năm tù; không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Văn C và Cao Văn G.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Cao Văn G tranh luận: Lời khai của bị cáo G khai tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo C và bị cáo T về việc không mua và trúng các con số 51, 639 như án sơ thẩm xác định. Bị cáo cung cấp chứng cứ mới gồm: Bản tự khai của bị cáo G; đoạn ghi âm cuộc nói chuyện giữa Trương Ngọc H4 với người tên Lương và đoạn ghi âm cuộc nói chuyện giữa bị cáo G với người tên Bình có liên quan đến việc bị cáo G bị Tòa án huyện Phú Tân xét xử. Luật sư cho rằng Cơ quan điều tra chưa làm rõ có hay không vai trò tham gia của Bình và Lương, chưa đủ căn cứ quy kết các bị cáo có mua bán, trúng các con số 51, 639 như án sơ thẩm đã xử. Đề nghị cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử quy kết các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T có hành vi thực hiện tội phạm đánh bạc bằng hình thức mua bán số đề ăn thua bằng tiền cụ thể như sau:

- Ngày 16/02/2019, Nguyễn Văn C bán số đề cho Cao Văn G với số tiền là 1.015.000 đồng. Kết quả xổ số đài Hậu Giang trúng con số 27 số lô 70.000 đồng, bằng tiền là 5.600.000 đồng. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 6.615.000 đồng.

- Ngày 18/02/2019, Nguyễn Văn C kêu Bùi Thị T giúp nghe điện thoại, đồng ý bán số đề cho Cao Văn G với số tiền 6.710.000 đồng. Kết quả xổ số đài Cà Mau trúng con 51, số đầu 700.000 đồng, bằng tiền là 49.000.000 đồng; trúng con số 639, số lô 800.000 đồng, bằng tiền là 48.000.000 đồng. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 103.710.000 đồng.

- Ngày 22/02/2019, Nguyễn Văn C và Bùi Thị T bán số cho các đối tượng: Thạch Văn C3, Nguyễn Thị P, Đặng Ánh E, Trần Thanh T2, Bùi Thị H1, Đỗ Thị H2, Phạm Ly K, Huỳnh Thị N3, Võ Tài N4, Trần Văn H3, Đinh Văn T3, Nguyễn Ngọc N5, Trần Thanh T4, Nguyễn Thanh T5, Nguyễn Văn T6 và Nguyễn Thị D, đài Trà Vinh với số tiền 9.986.000 đồng; đài Hà Nội với số tiền 5.778.000 đồng. Kết quả xổ số đài Trà Vinh, số đuôi trúng 1.400.000 đồng; số lô trúng 5.840.000 đồng, số tiền tham gia đánh bạc là 17.226.000 đồng; đài Hà Nội số lô trúng 800.000 đồng, số tiền tham gia đánh bạc là 6.578.000 đồng. Tổng số tiền tham gia đánh bạc là 23.804.000 đồng.

Như vậy, số tiền đánh bạc của bị cáo C trong 03 ngày là 134.129.000 đồng; số tiền đánh bạc của bị cáo G trong hai ngày là 110.325.000 đồng; số tiền bị cáo T nhận phơi giúp C đánh bạc trong 02 ngày là 127.514.000 đồng.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo C, bị cáo T không thừa nhận có bán các con số 51 và 639 cho bị cáo G trúng số tiền 97.000.000 đồng như án sơ thẩm quy kết. Lý do, file ghi âm từ máy điện thoại của bị cáo C đã cung cấp cho Cơ quan điều tra thể hiện bị cáo G không có đọc mua các con số trên khi điện thoại cho bị cáo T. Bị cáo G không thừa nhận có đọc mua và trúng các con số 51, 639 và cho rằng trước đây khai trúng là nghe theo lời kêu của Bình, Lương. Việc file ghi âm trong máy điện thoại bị cáo G cung cấp cho Cơ quan điều tra có thể hiện có mua các số 51, 639 bị cáo không biết. Bị cáo nghi ngờ do Lương ghép file.

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là không có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, chứng cứ để cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo có thực hiện mua, bán và trúng các con số 51, 639 với số tiền 97.000.000 đồng ngày 18/02/2019 là căn cứ vào file ghi âm từ máy điện thoại do bị cáo G cung cấp cho Cơ quan điều tra và file ghi âm trong thẻ nhớ do bị cáo C cung cấp cho Cơ quan điều tra. Kết quả giám định giọng nói từ các file ghi âm đã xác định giọng nam là của bị cáo G, giọng nữ là của bị cáo T. Việc này đã được chính các bị cáo thừa nhận. Song file ghi âm trong thẻ nhớ của bị cáo C cung cấp có bị cắt ghép 02 đoạn, còn file ghi âm trong điện thoại của bị cáo G là nguyên bản không bị cắt ghép. Mặt khác, ngay từ khi vụ án xảy ra, cơ quan điều tra phát hiện, khởi tố vụ án là do mâu thuẫn giữa bị cáo G với bị cáo C về việc C không thừa nhận G trúng số dẫn đến cãi nhau, C dùng súng giả dọa bắn G. Suốt trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo G đều khai thống nhất nhau, khẳng định đã mua và trúng các con số 51, 639, phù hợp với kết quả giám định và các chứng cứ có tại hồ sơ như án sơ thẩm đã quy kết. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận lời khai thay đổi tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo G cũng như lời khai không nhận tội của bị cáo C và bị cáo T.

[4] Đối với bản tự khai của bị cáo G và file ghi âm các cuộc nói chuyện của người tên H4 với người tên Lương và cuộc nói chuyện giữa bị cáo G với người tên Bình do bị cáo G giao nộp cho Tòa án cấp Phúc thẩm ngày 17/02/2020 (trước ngày mở phiên tòa 01 ngày). Bị cáo G và Luật sư cho rằng có nghi ngờ liên quan đến Lương và Bình tham gia thu xếp cắt ghép file ghi âm việc trúng số chưa được làm rõ. Xét thấy các tài liệu, đồ vật do bị cáo giao nộp không thể hiện nội dung liên quan trực tiếp đến vụ án; việc thu thập các đồ vật, tài liệu này không đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định, nên không đủ căn cứ xem là chứng cứ chứng minh cho việc các bị cáo không mua và trúng các con số 51, 639. Từ đó, không có cơ sở để hủy án sơ thẩm như đề nghị của Luật sư.

[5] Hành vi mua bán số đề ăn thua bằng tiền nêu trên của các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G và Bùi Thị T đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự. Trong đó số tiền tham gia đánh bạc của bị cáo C là 134.129.000 đồng; của bị cáo G là 110.325.000 đồng; của bị cáo T là 127.514.000 đồng. Án sơ thẩm số 27/2019/HS- ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xử phạt các bị cáo C, G, T phạm tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G và Bùi Thị T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân về việc không áp dụng khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự, tăng hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị T nhận thấy:

Trong vụ án bị cáo Nguyễn Văn C là người trực tiếp bán số đề trong 03 ngày 16, 18, 22 tháng 02 năm 2019 cho bị cáo G và nhiều người khác với số tiền đánh bạc 134.129.000 đồng nên bị cáo là người chịu trách nhiệm chính. Án sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên và tình tiết giảm nhẹ chưa tiền án, tiền sự, có nộp lại tiền thu lợi bất chính để phạt bị cáo 03 năm 09 tháng tù là tương xứng.

Bị cáo Cao Văn G người trực tiếp mua số đề do bị cáo C bán trong 02 ngày 16, 18 tháng 02 năm 2019 với số tiền đánh bạc là 110.325.000 đồng. Án sơ thẩm đã có xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên và tình tiết giảm nhẹ không tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạt bị cáo 03 năm tù là tương xứng.

Bị cáo Bùi Thị T là người giúp sức cho bị cáo C trong việc nghe điện thoại đồng ý bán số cho người mua, bị cáo tham gia nghe điện thoại ghi số trong 02 ngày 18 và 22 tháng 02 năm 2019 với số tiền đánh bạc là 127.514.000 đồng. Án sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên và tình tiết giảm nhẹ không tiền án, tiền sự; vai trò đồng phạm không đáng kể nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 02 năm tù dưới khung của điều luật quy định là có căn cứ, tương xứng với vai trò, mức độ phạm tội của bị cáo.

[7] Từ nhận định trên, xét thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T; không có cơ sở chấp nhận kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo T; cần giữ nguyên hình phạt án sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo để đảm bảo nghiêm trị, răng đe và phòng ngừa chung.

[8] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[9] Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân; giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 27/2019/HS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau về hình phạt.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Văn C 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Cao Văn G 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Thị T 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Văn C, Cao Văn G, Bùi Thị T mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
  • Tên bản án:
    Bản án 19/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    19/2020/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    18/02/2020
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:19/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về