Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Vào ngày 14/7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 178/2020/LTST- HNGĐ ngày 11/5/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 26/6/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Trần Thị L, sinh năm: 1979 Địa chỉ: ấp 2, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: anh Trần Văn G, sinh năm: 1975 Địa chỉ: ấp 2, xã X, huyện C, Đồng Nai.

(chị L và anh G vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 06/5/2020, các lời khai bổ sung trong hồ sơ vụ án thể hiện nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Trên cơ sở tự nguyện, tìm hiểu thương yêu nhau trong thời gian khoảng 02 năm vào năm 1995 chị và anh Trần Văn G tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, không tổ chức đám cưới, cũng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân lần đầu tiên của anh chị. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2010 kể từ khi sinh cháu N là vợ chồng bắt đầu mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn bắt đầu trầm trọng là từ năm 2019 cho đến nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là theo chị L là do anh G cho rằng chị có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác, ghen tuông, nghi ngờ, theo dõi, rồi đánh đập chị vô cớ. Nhậu nhẹt xay xỉn về thì đuổi chị ra khỏi nhà, Nhưng anh G không có chứng cứ chứng minh chị ngoại tình. Từ hơn 1 năm nay chị có ngoại tình về tư tưởng, chứ không đi quá giới hạn thể xác. Chị và anh G vẫn chung sống cùng nhà với nhau nhưng mạnh ai nấy sống, không có sự quan tâm, chăm sóc đến nhau đã hơn 1 năm nay, tình cảm vợ chồng giữa hai bên dành cho nhau không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh G.

Quá trình chung sống anh chị có 03 con chung là Trần Thị Quỳnh N, sinh năm: 1995, Trần Thị Thùy D, sinh năm: 1997 và Trần Bảo N, sinh ngày 02/9/2010.

Tài sản chung: có căn nhà cấp 4 xây dựng trên diện tích đất 8 x 18m tọa lạc tại ấp 2, xã X; nợ chung không có.

Khi ly hôn chị giao cháu N cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con; còn cháu Quỳnh N và Thùy D đã trưởng thành và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản chung anh chị tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và không có nợ chung nên không yêu cầu.

* Tại bản tự khai ngày 19/5/2020, các lời khai bổ sung trong hồ sơ thể hiện bị đơn anh Trần Văn G thống nhất với lời trình bày của chị L về quan hệ hôn nhân, việc không đăng ký kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung và một phần nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày. Theo anh mâu thuẫn vợ chồng là do chị L có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cải vã; anh có đánh đập chị L 1 lần. Cuộc sống chung của anh chị thực sự không còn hạnh phúc. Anh và chị L vẫn chung sống cùng nhà với nhau nhưng mạnh ai nấy sống, không có sự quan tâm, chăm sóc đến nhau.

Nay chị L xin ly hôn với anh thì anh đồng ý ly hôn với chị L vì không còn tình cảm vợ chồng với chị L. Anh xin nuôi dưỡng cháu Bảo N, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

* Các tài liệu, chứng cứ:

Nguyên đơn chị Trần Thị L và bị đơn anh Trần Văn G cung cấp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là: bản tự khai tường trình về nội dung tranh chấp; chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của anh chị (bản sao chứng thực); giấy khai sinh của các con chung (bản chứng thực); đơn xác nhận (bản chính); bảng lương (bản chính).

* Quan điểm của Viện kiểm sát huyện C: trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà sơ thẩm,Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đều làm đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng cũng chấp hành và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo tố tụng và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Đại diện VKS huyện C không có kiến nghị gì.

Về nội dung: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và khoản 1 Điều 11, Điều 92, Điều 93, Điều 94 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình không công nhận chị L và anh G là vợ chồng, về con chung giao cháu N cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng, tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và tư cách tham gia tố tụng: chị Trần Thị L khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Trần Văn G, xin nuôi dưỡng con chung nên đây là vụ kiện:Tranh chấp ly hôn,nuôi contheo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị L có đơn khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh G nên chị Lan là nguyên đơn, anh Giỏi là bị đơn trong vụ án.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: anh Trần Văn G hiện cư trú tại ấp 2, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện C theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn có đơn và yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật TTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.

[4] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị L và anh Trần Văn G tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995, anh chị không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận chị Trần Thị L và anh Trần Văn G là vợ chồng.

[5] Về con chung: chị L và anh G thỏa thuận thống nhất giao cháu N cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng sau khi anh chị ly hôn, đồng thời cháu N cũng có nguyện vọng được ở với anh G. Xét thỏa thuận của anh chị là phù hợp với nguyện vọng của cháu N và phù hợp với quy định tại Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đồng thời đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu N nên ghi nhận sự thỏa thuận này của anh chị, giao cháu N cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng.

[6] Về cấp dưỡng: Do anh G không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời không buộc nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị L.

[7] Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[8] Về nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

Đề nghị của đại diện VKS huyện C phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận xem xét.

Về án phí: chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng tiền án phí LHST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 11; Điều 92, Điều 93, Điều 94 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000;

Căn cứ khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: không công nhận chị Trần Thị L và anh Trần Văn G là vợ chồng.

- Về con chung: giao cháu Trần Bảo N sinh ngày 02/9/2010 cho anh Trần Văn G trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi.

Tạm thời không buộc nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị Trần Thị L.

Khi cần thiết chị L và anh G được quyền yêu cầu xin thay đổi người nuôi dưỡng và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí: chị Trần Thị L phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí LHST. Chuyển 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp thành tiền án phí (biên lai số 0001810 ngày 06/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ). Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:19/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về