Bản án 19/2020/DS-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 19/2020/DS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 57/2020/TLST- DS ngày 16 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST- DS ngày 14 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2020/QĐST- DS ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S (S) Địa chỉ: 266-268 N, phường T , quận B , TP. Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Ái L1 (có mặt) (Theo giấy ủy quyền số 104/2020/GUQ-CNHĐ ngày 15/6/2020)

* Bị đơn: +Ông Nguyễn Văn L – sinh năm 1964 (vắng mặt)

+ Bà Lê Thị V sinh năm 1964 (vắng mặt) Đều có HKTT: Phố T1, thị trấn V, huyện Ư, TP Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các buổi làm việc tại Tòa nguyên đơn trình bày: Ngày 12/9/2017, vợ chồng ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V đã ký Hợp đồng tín dụng số LD1725500005 và phụ lục tài sản bảo đảm, phụ lục các điều khoản chung để vay vốn tại Ngân hàng TMCP S (S) – chi nhánh Giảng Võ – phòng giao dịch Cầu Giấy (nay là phòng giao dịch Vạn Phúc – chi nhánh Hà Đông) với số tiền vay là: 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng). Mục đích vay: vay kinh doanh.Thời hạn vay: 60 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên. Hình thức giải ngân: chuyển khoản hoặc nhận tiền mặt. Sau đó S đã giải ngân cho ông L, bà V số tiền là 600.000.000đ theo Giấy nhận nợ số: LD1725500005 ngày 14/9/2017. Ngoài ra Hợp đồng tín dụng và Giấy nhận nợ còn quy định về lãi suất vay, thay đổi lãi suất vay, bảo đảm tiền vay….

Để bảo đảm khoản vay trên ông L, bà V đã thế chấp: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 289, tờ bản đồ 36 tại thôn Hậu Xá, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU883359, số vào sổ cấp GCN: CH07691 do UBND huyện Ứng Hòa cấp ngày 18/7/2017 mang tên ông Nguyễn Văn L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội và đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội ngày 13/9/2017.

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng trên, ông L, bà V đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi cho S nên toàn bộ khoản vay trên bị chuyển nợ quá hạn từ ngày 16/11/2018. Tính đến nay, ông L, bà V đã thanh toán cho S tổng số tiền là 196.836.385 (trong đó nợ gốc là 130.000.000đ và nợ lãi là 66.836.385đ).

Sau đó, S đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở ông L, bà V thanh toán trả tiền cho S nhưng ông L, bà V vẫn không thanh toán.

nh đến ngày 31/7/2020, tổng số tiền ông L, bà V còn nợ S số tiền là: 588.171.372 đồng (Năm trăm tám mươi tám triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn ba trăm bảy mươi hai đồng), cụ thể như sau:

Nợ gốc : 470.000.000 đồng Nợ lãi trong hạn : 78.053.653 đồng Nợ lãi quá hạn : 40.117.719 đồng Sau khi phát sinh nợ quá hạn, S đã đôn đốc, tạo điều kiện cho ông L, bà V thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho S, tuy nhiên ông bà đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, gây ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của S. Vì vậy S kính đề nghị Quý Tòa giải quyết tranh chấp như sau:

+ Buộc ông Nguyễn Văn L, bà Lê Thị V phải trả S số tiền tạm tính đến ngày 31/7/2020 tổng cộng là: 588.171.372 đồng (Năm trăm tám mươi tám triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn ba trăm bảy mươi hai đồng). Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi, lãi quá hạn theo Hợp đồng tín dụng và theo quy định của pháp luật cho đến ngày bà V, ông L thanh toán toàn bộ khoản vay.

+ Trường hợp ông L, bà V không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nêu trên, đề nghị Tòa án tuyên S được yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp cho khoản vay là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 289, tờ bản đồ 36 tại thôn Hậu Xá, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU883359, số vào sổ cấp GCN: CH07691 do UBND huyện Ứng Hòa cấp ngày 18/7/2017 mang tên ông Nguyễn Văn L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội để thu hồi nợ cho S.

+ Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán/xử lý tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ trả nợ của vợ chồng ông L, bà V đối với S. Nếu số tiền thu được từ bán/xử lý tài sản bảo đảm không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông L, bà V vẫn phải có nghĩa vụ trả hết khoản nợ cho S.

Bị đơn ông Nguyễn Văn L, bà Lê Thị V: không có quan điểm, ý kiến gì. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn vắng mặt; nguyên đơn có thay đổi về yêu cầu số tiền tính đến ngày 16/9/2020 là đề nghị Tòa giải quyết buộc ông L, bà V phải thanh toán cho S là tiền nợ gốc: 470.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 81.929.954 đồng, tiền lãi quá hạn: 37.788.905 đồng, lãi phạt: 8.336.475đ tổng là: 598.055.334 đồng (Năm trăm chín mươi tám triệu không trăm năm mươi lăm nghìn ba trăm ba mươi tư đồng.) ngoài ra vẫn giữ nguyên các nội dung khởi kiện khác và không xuất trình thêm tài L chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và hướng xử lý tài sản như nguyên đơn trình bày. Bị đơn phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

[1.1] Về thực hiện tố tụng của Tòa án:

Về phạm vi khởi kiện, quan hệ pháp luật: Ngân hàng TMCP S yêu cầu ông Nguyễn Văn L, bà Lê Thị V phải thanh toán tiền gốc, lãi theo Hợp đồng tín dụng và Giấy nhận nợ hai bên đã ký kết; đồng thời trường hợp ông L, bà V không thanh toán tiền cho S thì S có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật. Do vậy, đây là tranh chấp Hợp đồng tín dụng theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Về thẩm quyền: Quan hệ pháp luật là tranh chấp Hợp đồng tín dụng, bị đơn ông Nguyễn Văn L, bà Lê Thị V có đăng ký nơi cư trú là: Phố Trần Đăng Ninh, thị trấn V Đình, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Về chứng cứ: Tại biên bản về kiểm tra việc giao nộp chứng cứ ngày 16/7/2020 và ngày 14/8/2020 đương sự xác nhận các tài L giao nộp đầy đủ trong hồ sơ vụ án, không còn tài L chứng cứ nào khác cần bổ sung. Các đương sự đã được tiếp cận toàn bộ tài L, chứng cứ có trong hồ sơ do các đương sự cung cấp và Tòa án thu thập; không có ý kiến nào phản đối về chứng cứ. Do vậy, những tài L có trong hồ sơ vụ án mà Tòa án sử dụng làm căn cứ giải quyết, đủ điều kiện là chứng cứ theo Điều 92, Điều 93 của BLTTDS.

[1.3] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm: Bị đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa ngày 31/8/2020, đến phiên tòa hôm nay vắng mặt lần thứ 2. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung vụ án như sau: Ngày 12/9/2017, vợ chồng ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V đã ký Hợp đồng tín dụng số LD1725500005 và phụ lục tài sản bảo đảm, phụ lục các điều khoản chung để vay vốn tại S với số tiền vay là: 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng). Mục đích vay: vay kinh doanh. Sau đó S đã giải ngân cho ông L, bà V số tiền là 600.000.000đ theo Giấy nhận nợ số: LD1725500005 ngày 14/9/2017. Ngoài ra Hợp đồng tín dụng và Giấy nhận nợ còn quy định về lãi suất vay, thay đổi lãi suất vay, thời hạn vay, bảo đảm tiền vay…. Để bảo đảm khoản vay ông L, bà V đã thế chấp một bất động sản thể hiện tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội.

Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, ông L, bà V đã không thực hiện trả nợ theo như cam kết trong các Hợp đồng tín dụng và các Giấy nhận nợ đã ký kết. Khoản nợ của ông L, bà V đã bị chuyển nợ quá hạn. Vì vậy, S có đơn khởi kiện ông L, bà V đến Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa để giải quyết.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán tiền gốc, lãi cho nguyên đơn theo Hợp đồng tín dụng và Giấy nhận nợ đã ký kết.

Việc ký Hợp đồng tín dụng số: LD1725500005 ngày 12/9/2017 đính kèm phụ lục tài sản bảo đảm, phụ lục các điều khoản chung giữa ông L, bà V với S với số tiền vay vốn là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng). Sau khi ký kết Hợp đồng, S đã thực hiện giải ngân cho ông L, bà V 600.000.000 đồng theo Giấy nhận nợ số: LD1725500005 ngày 14/9/2017. Hợp đồng tín dụng giữa S và ông L, bà V trên cơ sở tự nguyện, bảo đảm các quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông L, bà V đã trả được tổng số tiền là: 196.836.385 đồng (trong đó nợ gốc là 130.000.000đ và nợ lãi là 66.836.385đ) cho S nhưng sau đó ông L, bà V vi phạm thời hạn thanh toán nên S nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng ông L, bà V vẫn không trả toàn bộ gốc và lãi. Do vi phạm Hợp đồng S yêu cầu ông L, bà V phải trả số tiền gốc là có căn cứ.

Tại mục 5 của Hợp đồng tín dụng và mục 2 của Phụ lục các điều khoản chung có quy định về lãi suất. Việc thỏa thuận về lãi suất giữa ông Hội, bà Đào với S là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sựNghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm”. S yêu cầu ông L, bà V phải thanh toán tiền nợ lãi và lãi quá hạn là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của S, cụ thể buộc ông L, bà V phải thanh toán trả S số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 16/9/2020 tiền gốc là: 470.000.000đồng; Nợ lãi trong hạn: 470.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn: 81.929.954 đồng, tiền lãi quá hạn: 37.788.905 đồng, lãi phạt: 8.336.475đ tổng là: 598.055.334 đồng (Năm trăm chín mươi tám triệu không trăm năm mươi lăm nghìn ba trăm ba mươi tư đồng). Buộc ông L, bà V phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng mà hai bên đã ký kết cũng như Giấy nhận nợ kể từ ngày 179/2020 (Có sự điều chỉnh tăng, giảm theo từng thời kỳ của S) cho đến khi thanh toán hết dư nợ gốc tương ứng với thời gian chậm trả.

[3.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc xử lý tài sản bảo đảm thì thấy: Khi ký kết Hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận biện pháp bảo đảm cụ thể là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 289, tờ bản đồ 36 tại thôn Hậu Xá, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội, Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU883359, số vào sổ cấp GCN: CH07691 do UBND hu yện Ứng Hòa cấp ngày 18/7/2017 mang tên ông Nguyễn Văn L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ cho S và đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội ngày 13/9/2017.

Tại thời điểm xem xét thẩm định tại chỗ: Thửa đất hiện tại là thửa đất trống không xây dựng công trình gì trên đất; không có tài sản khác gắn liền với đất; không cho ai thuê, ai mượn, ai ở nhờ; thửa đất không có tranh chấp với các hộ liền kề hay với bất kỳ ai.

Xét thấy Hợp đồng thế chấp được các bên ký kết và công chứng tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc, không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội, tài sản thế chấp đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Căn cứ các Điều 317, 318, 319, 320, 322, 323, 463 và 466 Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm của S: S được yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp nêu trên khi ông L, bà V không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nêu trên.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp không đủ trả hết các khoản nợ cho S thì ông L, bà V có nghĩa vụ tiếp tục trả hết số nợ cho S.

Trường hợp xử lý tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ thì số tiền chênh lệch phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản.

[4] Về chi phí tố tụng: S tự nguyện nộp toàn bộ chi phí tố tụng; các đương sự không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 146; Điều 147 BLTTDS; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Nguyễn Văn L, bà Lê Thị V phải chịu toàn bộ án phí dân sự là 27.922.000đ; S không phải chịu án phí nên được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 12.000.000đ.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271 và 273 của BLTTDS năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, Điều 146, Điều 147; Điều 244; Điều 227, Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 275; Điều 463, 466, 468; 357; 292, 293, 295, 298, 299; 317, 318, 319, 320, 322 và Điều 323 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 91 của Luật tổ chức tín dụng;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S đối với ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V.

2. Buộc ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V phải có nghĩa vụ trả cho S, số tiền tính đến ngày xét xử - ngày 16/9/2020 là 598.055.334 đồng (Năm trăm chín mươi tám triệu không trăm năm mươi lăm nghìn ba trăm ba mươi tư đồng); trong đó nợ gốc là: 470.000.000 đồng, tiền nợ lãi: 128.055.334đồng.

Kể từ ngày 17/9/2020, ông L, bà V phải chịu lãi phát sinh trên dư nợ gốc cho đến khi thanh toán hết toàn bộ khoản nợ theo Hợp đồng tín dụng số: LD1725500005 ngày 12/9/2017 đính kèm phụ lục tài sản bảo đảm, phụ lục các điều khoản chung và Giấy nhận nợ số: LD1725500005 ngày 14/9/2017, được điều chỉnh phù hợp với lãi suất cho vay của S theo từng thời kỳ nhưng không được trái quy định pháp luật.

3. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V không trả được số tiền nợ trên và lãi phát sinh cho S thì S có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp cụ thể: Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 289, tờ bản đồ 36 tại thôn Hậu Xá, xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội, Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đ ất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU883359, số vào sổ cấp GCN: CH07691 do UBND huyện Ứng Hòa cấp ngày 18/7/2017 mang tên ông Nguyễn Văn L. Tài sản này được thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 4460.2017/HĐTC; Quyển số: 05 TP/CC- SCC/HĐGD ngày 12/9/2017 tại Phòng Công chứng số 4 thành phố Hà Nội; đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội ngày 13/9/2017.

Trường hợp số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp không đủ trả hết các khoản nợ cho S thì ông L, bà V có nghĩa vụ tiếp tục trả hết số nợ cho S. Trường hợp xử lý tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ thì số tiền chênh lệch phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị V phải nộp: 27.922.000đ (Hai mươi bảy triệu chín trăm hai mươi hai nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP S 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng) số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lại số 009714 ngày 16/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2020/DS-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:19/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về