Bản án 19/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 19/2019/HSST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2019/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST – HS ngày 13 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Lường Văn P; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1974; nơi cư trú: Bản P, xã M E, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; dân tộc: Thái; nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 3/12; Con ông: Lường Văn T ( Đã chết ) và bà Quàng Thị X, sinh năm: 1951; Bị cáo có vợ là: Lường Thị T, sinh năm: 1976 và có 02 con ( Đều đã trưởng thành ); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 12/12/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 12/12/2018, tại khu vực bản Phạ, xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Lường Văn P ( SN: 1974, trú tại: Bản P  - M E - Thuận Châu ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 08 gói ni lon màu hồng bên trong mỗi gói đều chứa chất bột cục màu trắng (

Theo đối tượng P khai nhận là Heroine ).

Kết quả cân tịnh 08 gói bột màu trắng cùng được gói bằng ni lon màu hồng thu giữ của đối tượng P như sau:

- Gói thứ nhất có khối lượng là 0,03 gam, trích rút toàn bộ 0,03 gam đánh ký hiệu P1 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ hai có khối lượng là 0,05 gam, trích rút toàn bộ 0,05 gam đánh ký hiệu P2 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ ba có khối lượng là 0,04 gam, trích rút toàn bộ 0,04 gam đánh ký hiệu P3 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ tư có khối lượng là 0,04 gam, trích rút toàn bộ 0,04 gam đánh ký hiệu P4 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ năm có khối lượng là 0,04 gam, trích rút toàn bộ 0,04 gam đánh ký hiệu P5 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ sáu có khối lượng là 0,04 gam, trích rút toàn bộ 0,04 gam đánh ký hiệu P6 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ bảy có khối lượng là 0,05 gam, trích rút toàn bộ 0,05 gam đánh ký hiệu P7 làm mẫu vật gửi giám định.

- Gói thứ tám có khối lượng là 0,04 gam, trích rút toàn bộ 0,04 gam đánh ký hiệu P8 làm mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số: 60/KLMT ngày 18/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu lần lượt P1, P2, P3, P4, P5, P6, P7, P8 đều là chất ma túy; Loại chất Heroine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được của Lường Văn P là 0,33 gam Heroine.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Lường Văn P đã khai nhận như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 12/12/2018, Lường Văn P đi bộ tìm mua ma túy ở khu vực bản Phạ, xã Mường É, huyện Thuận Châu với mục đích sử dụng cho bản thân và P đã gặp và mua được của 01 người thanh niên tên Ngân nhà ở xã É Tòng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La 08 gói Heroine được gói bằng ni lon màu hồng với giá 400.000đ ( Bốn trăm nghìn đồng ). P dấu 08 gói ma túy vào túy áo khoác bên phải phía trước đang mặc và tìm chỗ vắng người để sử dụng, tuy nhiên khi chưa tìm địa điểm để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an xã Mường É, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng là 08 gói ma túy được gói bằng ni lon màu hồng như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 19/CT - VKS ngày 28/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lường Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lường Văn P, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lường Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm: 01 P bì thư niêm P có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn P Tàng trữ trái phép chất ma túy, 08 mảnh ni lon màu hồng và 01 vỏ P bì thư niêm P vật chứng ban đầu.

Tại phiên tòa bị cáo P có ý kiến: Do bản thân mắc nghiện ma túy nên ngày 12/12/2018 đã có hành vi mua, tàng trữ trái phép 0,33 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 12/12/2018, bị cáo Lường Văn P ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,33 gam Heroin ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lường Văn P đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

 “ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần  phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ:  Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Xử lý vật chứng: Đối với 0,33 gam Heroine là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành tuy nhiên đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Do vậy không đặt ra vấn để xử lý; đối với số vật chứng là 01 P bì thư niêm P có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn P Tàng trữ trái phép chất ma túy, 08 mảnh ni lon màu hồng và 01 vỏ P bì thư niêm P vật chứng ban đầu. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với nguồn gốc 0,33 gam Heroin bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người thanh niên tên Ngân nhà ở xã É Tòng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Quá trình điều tra do ngoài thông tin đối tượng tên là Ngân ra thì bị cáo không cung cấp được tên họ, tuổi và địa chỉ cụ thể của đối tượng. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở, để điều tra làm rõ.

[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 136  Bộ  luật  tố  tụng  hình  sự;  điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị  quyết  số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

 [11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lường Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lường Văn P 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 12/12/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 P bì thư niêm P có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lường Văn P Tàng trữ TPCMT, bắt ngày 12/12/2018. 08 mảnh ni lon màu hồng và 01 vỏ P bì thư niêm P vật chứng ban đầu.

3. Án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về