Bản án 19/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YL, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST-HS, ngày 01 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Hà Minh T, Tên gọi khác: Không, Sinh ngày: 20/12/1997 tại thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Minh K, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1995 ở thôn C, xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên; Con: 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/5/2019 đến ngày 30/5/2019. Hiện nay đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 02/LCĐKNCT, ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phan Thùy Linh - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ (có mặt).

Người bị hại: Chị Hà Thị O Sinh năm 1988 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khu 5, T, xã N, huyện YL, tỉnh Phú Thọ.

Người làm chứng: Anh Phùng Trung Đ Sinh năm 1992 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khu T, xã N, huyện YL, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 27/5/2019 Hà Minh T đi bộ từ Trường trung học cơ sở xã P, huyện YL (do buổi tối hôm trước T ngủ tại trường) đi theo quốc lộ 70B từ xã P đi xã N. Đến khoảng 8 giờ cùng ngày T đi đến đoạn rẽ vào trường Tiểu học N, thuộc khu T, xã N, huyện YL, T phát hiện thấy 01 chiếc xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, màu trắng đen, BKS: 19T6-0207 của chị Hà Thị O đang dựng ở cổng trường mầm non để vào họp phụ huynh. T lại gần thấy xe moto của chị O vẫn cắm chìa khóa ở ổ khóa, T quan sát không thấy ai trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp xe moto của chị O bán lấy tiền tiêu sài. T ngồi lên xe moto, bật khóa điện, nổ máy để đi, đúng lúc này chị O vừa họp phụ huynh xong, đi ra lấy xe để về thì nhìn thấy T đang nổ xe máy của mình đi về hướng huyện T nên chị O hô hoán mọi người và gọi điện báo cho Công an xã N, huyện YL và Công an huyện YL, đồng thời nhờ anh Phùng Trung Đ chở chị O đuổi theo T đang điều khiển xe moto đi về hướng thị trấn T, huyện T1. Khi T điều khiển xe moto trộm cắp được đến đầu cầu 19/5 thuộc thị trấn T, lúc này khoảng 9 giờ 30 phút, thì chị O và tổ công tác Công an huyện YL đuổi kịp đã bắt giữ được T cùng chiếc xe moto của chị O do T trộm cắp và đưa về trụ sở UBND thị trấn T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, BKS 19T6-0207, màu trắng đen 01 đăng ký xe moto mang tên Hà Thị O.

Ngày 27/5/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện YL đã trưng cầu định giá. Tại bản kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 27/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện YL đã định giá chiếc xe máy HONDA CLICK, BKS 19T6-0207 có giá trị là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).

Do sơ hở trong việc quản lý tài sản của chị O nên đã tạo điều kiện cho bị cáo trộm cắp tài sản. Động cơ, mục đích của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội nhằm bán lấy tiền tiêu sài cá nhân.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện YL và tại phiên toà hôm nay Hà Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên, lời khai của T phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Hà Minh T đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, theo bản Cáo trạng số 21/CT-VKSYL-HS ngày 29/7/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i,s khoản 1 Điều 51, Điều 36 BLHS.

Phạt Hà Minh T từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ 03 ngày tạm giữ (từ ngày 27/5/2019 đến 30/5/2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ. Nay còn phải thi hành từ 11 tháng 21 ngày đến 14 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ.

Miễn khấu trừ thu nhập và miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 48 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xác nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện YL đã thu giữ và trả lại cho chị Hà Thị O 01 xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, BKS 19T6-0207, màu trắng đen 01 đăng ký xe moto mang tên Hà Thị O. Chị O không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Bị cáo T không tranh luận gì về tội danh cũng như mức án mà Kiểm sát viên đề nghị với Hội đồng xét xử.

Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí tội danh truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, người dân tộc thiểu số sống ở nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, người bị hại cũng có lỗi để quên chìa khóa nên T đã nảy sinh lòng tham trộm cắp tài sản, tài sản đã trả lại cho người bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét gỉảm nhẹ cho bị cáo phạt mức án 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ là phù hợp.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, Trợ giúp viên pháp lý và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ.

Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo ở nhà lao động.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hồi 9 giờ 30 phút, ngày 27/5/2019, tại khu T, xã N, huyện YL, Hà Minh T, sinh năm 1997 ở thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, BKS 19T6-0207 của chị Hà Thị O, trị giá tài sản là 7.000.000 đồng.

[2] Sự khai nhận này hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hà Minh T phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Khon 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

….”

[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân vì tài sản hợp pháp của mọi công dân đều được pháp luật bảo vệ. Vì vậy cần phải xử lý bị cáo một cách nghiêm khắc trước pháp luật.

[4] Xét nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo tuổi đời còn rất trẻ, chưa có tiền án, tiền sự, động cơ phạm tội của bị cáo T là vụ lợi, mục đích là muốn có tiền để tiêu sài cá nhân. Do vậy khi áp dụng hình phạt cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra xác định được bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, T phạm tội lần đầu và khung hình phạt đến 3 năm tù thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự“Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo rõ ràng, thành khẩn nhận tội nên được hưởng tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Từ những phân tích trên đây: Hội đồng xét xử thấy rằng Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội mà cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại cộng đồng có sự giám sát của chính quyền địa phương, gia đình và xã hội cũng đủ để bị cáo sớm trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự có quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

Tại biên bản xác minh tài sản ngày 28/6/2019 (Bút lục số 39) thì bị cáo T đang sống cùng bố, mẹ đẻ, không có tài sản riêng. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Ngoài việc bị cáo có nghề nghiệp làm ruộng, thu nhập của bị cáo hiện nay không ổn định và chỉ đủ nuôi sống gia đình. Do vậy cần miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 05/6/2019 người bị hại là Hà Thị O đã nhận lại được 01 xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, BKS 19T6-0207, màu trắng đen 01 đăng ký xe moto mang tên Hà Thị O (Bút lục số 38). Nay không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì (Bút lục 47,48), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện YL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện YL, Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo, bị cáo, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về mức án 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ là thấp, không có tính răn đe, thử thách, giáo dục cao đối với bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm nên không được chấp nhận.

Đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Hà Minh T phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

[2] Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i,s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2, 4 Điều 36 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Hà Minh T 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Được trừ thời gian tạm giữ là 03 (Ba) ngày (từ ngày 27/5/2019 đến ngày 30/5/2019) quy đổi thành 09 (Chín) ngày cải tạo không giam giữ. Nay còn phải chấp hành 14 (Mười bốn) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ được giao giám sát giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn YL, huyện YL, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục Hà Minh T.

Miễn khấu trừ thu nhập và miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự;

Hy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 02/LCĐKNCT, ngày 31/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh Phú Thọ.

[4] Căn cứ khoản 1 Điều 48 BLHS; Điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện YL, tỉnh Phú Thọ đã trả vật chứng của vụ án cho chị Hà Thị O gồm: 01 xe moto nhãn hiệu HONDA CLICK, BKS 19T6-0207, màu trắng đen 01 đăng ký xe moto mang tên Hà Thị O là phù hợp. Nay chị O không có yêu cầu gì khác.

[5] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Hà Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt được quyền kháng cáo, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về