Bản án 19/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân Thành phố M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2019/HS-ST ngày 01 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HS ngày 20/02/2019 đối với bị cáo:

Lê Thanh T (T vịt), sinh ngày 17 tháng 8 năm 2000, tại Tiền Giang. Nơi cư trú: Số 64/3, đường Trịnh Hoài Đức, Phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh Sang và bà Trần Thị Mỹ Trang; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 86 ngày 30/9/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố M. Trong vụ án này bị cáo tại ngoại (Có mặt).

- Người bị hại: Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 (Xin vắng mặt);

Trú tại: số 55 đường T, phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng:

1. Cao Thành Dũng M, sinh năm 1998 (vắng mặt);

Trú tại: ấp Mỹ An, xã M, thành phố M, tỉnh Tiền Giang;

2. Nguyễn Nhựt Duy, sinh năm 1998 (vắng mặt);

Trú tại: số 138 đường P, phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3. Nguyễn Hoàng Minh D, sinh năm 2005 (vắng mặt);

Đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978 (vắng mặt);

Cùng trú tại: số 85/5 Đ, Phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

4. Trần Anh K, sinh năm 2000 (vắng mặt);

Trú tại: số 123/5 đường Đ, phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

5. Châu Định K, sinh năm 2003 (vắng mặt);

Đại diện hợp pháp: Ông Châu Văn H, sinh năm 1968 (vắng mặt);

Cùng trú tại: số 118 đường N, Phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

6. Lê Khang K, sinh ngày 26/9/2001 (vắng mặt);

Đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị Bích H, sinh năm 1979 (vắng mặt);

Cùng trú tại: số 62/4 đường N, Phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

7. Lý Hoàng H, sinh ngày 18/5/2001 (vắng mặt);

Đại diện hợp pháp: Bà Huỳnh Thị Kim T, sinh năm 1967(vắng mặt);

Cùng trú tại: số 41/2 đừơng Đ, Phường 2, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 10/6/2018, Nguyễn Văn T (P), sinh năm 1995, ngụ số 55, đường N, Phường 2, thành phố M điện thoại hẹn Nguyễn Nhựt Duy, sinh năm 1998, ngụ số 138, đường P, Phường 2, thành phố M chở Lê Thanh T đến khu vực đường bê tông trước Trạm y tế Phường 2; khu phố 5, Phường 2, thành phố M để giải quyết mâu thuẫn xảy ra trước đó giữa T và T. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, T lấy một con dao dài 21cm có cán bằng nhựa màu đen dài 10cm quấn dây vải thun màu đen; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn dài 11cm đem theo sẵn đến địa điểm trên gặp T và hai bên cự cãi, xô xát nhau; T đứng đối diện dùng tay phải cầm dao đâm trúng vai trái của T một nhát; T chạy đến bụi cỏ gần đó nhìn thấy một con dao tự chế dài khoảng 50 cm có cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại màu trắng nên nhặt lên chém trúng 02 tay của T; T tiếp tục cầm dao đâm 03-04 nhát trúng vai trái và lưng của T. Lúc này, T ném con dao tự chế xuống đất định bỏ đi thì T đến nhặt con dao trên và chém 01 nhát trúng tay trái của T gây thương tích rồi bỏ dao lại tại hiện trường; riêng con dao của T thì sau đó T đưa cho Trần Anh K, sinh ngày 03/7/2000, ngụ số 123/5, đường Đ, Phường 2, thành phố M cất giữ và K đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố M. Sau khi bị gây thương tích, T được đưa đến Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Tiền Giang và chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh điều trị. Đến 17 giờ 15 phút cùng ngày, Cao Thành D Minh, sinh năm 1998, ngụ ấp Mỹ An, xã M, thành phố M đến Công an Phường 2, thành phố M trình báo.

Lê Thanh T có bị Nguyễn Văn T dùng dao chém nhưng do thương tích nhẹ, không đến bệnh viện điều trị và ngày 16/8/2018, T có đơn từ chối giám định thương tật, không yêu cầu xử lý hình sự và không yêu cầu T bồi thường phần trách nhiệm dân sự nên không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về hành vi gây thương tích cho T.

Căn cứ giấy chứng nhận thương tích số 848 ngày 17/7/2018 của Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận Nguyễn Văn T có các thương tích sau:

- Vùng ngực, bụng: vết thương vùng vai trái (đã khâu).

- Bốn vết thương vùng lưng (đã khâu); tràn khí màng phổi trái; chấn thương thận phải độ III; CT Scan bụng tụ máu khí quanh thận phải, rách vỏ thận phải, tụ máu - khí dưới da mô mềm thành ngực bụng, tổn thương phế nang đáy phổi trái, tràn khí màng phổi trái, ít dịch đáy phổi trái.

- Tay trái: vết thương 1/3 trên ngoài cánh tay khoảng 07cm (đã khâu).

- Chân trái: Hai vết thương vùng gối, mỗi vết thương khoảng 01cm và 1,5cm.

Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 272 ngày 31/7/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận Nguyễn Văn T: Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vết thương vai trái, kt (3,5x0.5)cm.

- Sẹo vết thương bả vai trái, kt (3,5x1)cm.

- Sẹo vết thương cạnh cột sống, kt (4x0.3)cm.

- Sẹo vết thương dưới bả vai trái, kt (2x0.3)cm.

- Sẹo vết thương cạnh cột sống thắt lưng, kt (3x0.5)cm.

- Sẹo vết thương 1/3 trên ngoài cánh tay trái, kt (12x0.5)cm.

- Sẹo vết thương mặt trước gối trái, kt (1.5x0.5)cm.

- Sẹo vết thương mặt ngoài gối trái, kt (1.5x0.5)cm.

- Tràn khí màng phổi trái. Chấn thương thận phải độ III. Tổn thương phế nang đáy phổ trái.

Tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 30%. Thương tích do vật sắc gây nên.

Tại bản cáo trạng số 29/QĐ-VKS ngày 24/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố M đã truy tố bị cáo Lê Thanh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm, b, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 ; Điều 91 ; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo T từ 02 năm tù đến 03 năm tù. về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 con dao. Về trách nhiệm dân sự đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại xong cho bị hại số tiền 13.400.000đồng, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận: do mâu thuẫn cá nhân, khoảng 16 giờ 30 phút ngày 10/6/2018, bị hại Nguyễn Văn T (P), sinh năm 1995, điện thoại hẹn Nguyễn Nhựt Duy, sinh năm 1998, ngụ số 138, đường P, Phường 2, thành phố M chở Lê Thanh T đến khu vực đường bê tông trước Trạm y tế Phường 2; khu phố 5, Phường 2, thành phố M để giải quyết mâu thuẫn xảy ra trước đó, bị cáo T lấy một con dao dài 21 cm có cán bằng nhựa màu đen dài 10cm quấn dây vải thun màu đen; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn dài 11 cm đem theo sẵn đến địa điểm trên gặp T và hai bên cự cãi, xô xát nhau. T dùng dao đâm vào vai, lưng của anh T gây thương tích 30% nên bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm bất hợp pháp đến sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh địa phương, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì lớn nhưng bị cáo đã thực hiện hành vi dùng dao gây thương tích cho bị hại đến 30%. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo gây ra mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[3] Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; khi thực hiện hành vi phạm tội cũng có một phần lỗi của bị hại điện thoại hẹn bị cáo đến giải quyết mâu thuẫn lúc này bị cáo chưa thành niên, chưa phát triển bình thường về tâm sinh lý; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả bồi thường chi phí điều trị cho bị hại nhận xong số tiền 13.400.000đồng, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích với số tiền 13.400.000 đồng, bị cáo tự nguyện bồi thường xong, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin bãi nại cho bị cáo nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về xử lý vật chứng: Một con dao dài 21 cm có cán bằng nhựa màu đen dài 10cm quấn dây vải thun màu đen; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn dài 11 cm, nơi rộng nhất 02cm, trên lưỡi dao có dính vết màu nâu nghi là máu, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Căn cứ điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 91; điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 02( hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Thanh T cho Ủy ban nhân dân Phường 2, thành phố M tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Gia đình bị cáo Lê Thanh T có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân Phường 2, thành phố M tỉnh Tiền Giang trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại xong cho bị hại Nguyễn Văn T nhận số tiền 13.400.000 đồng, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin bãi nại cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một con dao dài 21 cm có cán bằng nhựa màu đen dài 10cm quấn dây vải thun màu đen; lưỡi bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn dài 11cm, nơi rộng nhất 02cm; trên lưỡi dao có dính vết màu nâu đỏ nghi là máu.

Khi án có hiệu lực pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/01/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố M).

Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Bị cáo Lê Thanh T phải chịu là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về