TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 19/2019/HS-PT NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 19/2019/TLPT-HS ngày 17 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo Hoàng Thị B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái.
- Bị cáo có kháng cáo: Hoàng Thị B, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1969 tại huyện LY, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Thôn TP, xã YT, huyện LY, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Lôi Ph (đã chết) và bà Hoàng Thị Y; có chồng là Tăng Văn N và 02 con (lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 08 tháng 9 năm 2018 (Quyết định tạm giữ số 66/PC02 ngày 08 tháng 9 năm 2018 của Công an huyện LY, tỉnh Yên Bái) đến ngày 11 tháng 9 năm 2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú “có mặt”.
- Ngoài ra, còn có bị cáo Hoàng Minh T (nơi cư trú: Thôn CV, xã TL, huyện LY, tỉnh Yên Bái) có kháng cáo, nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa; Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 07 tháng 9 năm 2018, anh Vi Văn M đến nhà nghỉ 66 (thuộc thôn TP, xã YT, huyện LY, tỉnh Yên Bái) của chị Phùng Thị Th để mua dâm. Chị Th không có mặt ở nhà, chỉ có Hoàng Thị B là nhân viên phục vụ của nhà nghỉ. Anh M hỏi B “Có gái không”, ý của M là muốn mua dâm, B trả lời “Có”. Sau đó, B xếp cho M vào phòng số 103 rồi dùng điện thoại di động của mình gọi cho Hoàng Minh T, lúc này T đang ở nhà nghỉ NM. B hỏi T “Có đứa nào không chở cho bà”, T hiểu ý B hỏi là có gái bán dâm không, T trả lời “Chờ một lúc”. Lúc này tại nhà nghỉ NM có Triệu Thị X đến xin việc, do biết X có nhu cầu bán dâm nên T đưa X đến nhà nghỉ 66 để bán dâm cho M. Đến nơi B dẫn X vào phòng 103 để M và X thực hiện hành vi mua bán dâm. B thu của anh M 300.000đồng, B đưa cho T 200.000đồng, còn 100.000đồng là tiền thuê phòng, B cất trong người mục đích khi chị Th về sẽ đưa cho chị Th. Số tiền 200.000đồng, T cầm để đưa cho X 100.000đồng, khi chưa đưa tiền cho X thì trên đường đi về T đã làm rơi mất. Khi M và X đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng 103 nhà nghỉ 66 thì bị tổ công tác Công an tỉnh YB lập biên bản bắt quả tang.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2019/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái đã quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố Hoàng Thị B phạm tội “Chứa mại dâm”; Hoàng Minh T phạm tội “Môi giới mại dâm”;
2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Thị B 01 (một) năm tù, được khấu trừ 03 (ba) ngày tạm giữ (từ ngày 08-9-2018 đến ngày 11-9-2018); thời hạn tù còn phải chấp hành là 11 tháng 27 ngày, tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Căn cứ khoản 1 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Minh T 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm; tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27 tháng 3 năm 2019, bị cáo Hoàng Thị B và bị cáo Hoàng Minh T kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 04 tháng 5 năm 2019, bị cáo Hoàng Minh T rút kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm:
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị B; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái theo hướng: Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Thị B 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chứa mại dâm”, ấn định thời gian thử thách và tuyên nghĩa vụ thi hành án đối với bị cáo B theo pháp luật.
Giữ nguyên các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị.
* Bị cáo Hoàng Thị B thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như bản án sơ thẩm đã xác định; giữ nguyên nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Do bị cáo Hoàng Minh T rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã ra Quyết định số 14/2019/HSPT-QĐ ngày 04 tháng 5 năm 2019 đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Hoàng Minh T, vì vậy tại phiên tòa Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của bị cáo.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Thị B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã xác định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và xem xét tại phiên tòa. Như vậy, đã có đầy đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 07 tháng 9 năm 2018, tại nhà nghỉ 66 thuộc thôn TP, xã YT, huyện LY, tỉnh Yên Bái, Hoàng Thị B là nhân viên được giao quản lý nhà nghỉ đã có hành vi cho Triệu Thị X bán dâm cho Vi Văn M tại phòng 103 của nhà nghỉ. B thu của Mạnh 300.000đồng, đưa cho T 200.000đồng, còn 100.000 đồng là tiền thuê phòng nghỉ.
Hoàng Thị B là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và nếp sống văn minh. Việc Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái xử phạt bị cáo Hoàng Thị B 01 năm tù về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị B: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Hoàng Thị B đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Tòa án sơ thẩm áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Hoàng Thị B nộp văn bản xác nhận của chính quyền địa phương về việc bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú và có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn: Gia đình thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo là lao động duy nhất, đang phụng dưỡng mẹ chồng già yếu (là vợ liệt sỹ), nuôi chồng bị bệnh tâm thần và hai con còn nhỏ; khi bị Cơ quan điều tra phát hiện Hoàng Thị B đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại và 100.000đồng (là số tiền thu từ người mua dâm, bản thân bị cáo là người lao động làm thuê, không được hưởng lợi gì từ việc phạm tội, mục đích là thu tiền phòng nghỉ); đồng thời xuất trình biên lai nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm, thể hiện ý thức chấp hành thi hành án, vì vậy cần cho bị cáo Hoàng Thị B được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xét thấy, bị cáo Hoàng Thị B đã thật sự ăn năn hối cải, có khả năng tự cải tạo, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, tính chất, mức độ phạm tội không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên không cần thiết cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng chế định quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.
Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm về việc cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp quy định của pháp luật.
Do đó, cần chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Hoàng Thị B, sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái.
[4] Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo Hoàng Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với Hoàng Minh T kể từ ngày Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái ra Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị B; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện LY, tỉnh Yên Bái:
Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Thị B 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chứa mại dâm”; thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 14-5-2019).
Giao bị cáo Hoàng Thị B cho Ủy ban nhân dân xã YT, huyện LY, tỉnh Yên Bái giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Bị cáo Hoàng Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với Hoàng Minh T kể từ ngày Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Hoàng Minh T.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2019/HS-PT ngày 14/05/2019 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 19/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về