Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2019/TLST-HNGĐ ngày 12/02/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09/5/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Mai Phương T - Sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn Trung Thành, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (Có mặt).

* Bị đơn: Anh Mai Chấn Y - Sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn Trung Thành, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 01/02/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Mai Phương T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Mai Chấn Y đăng ký kết hôn vào ngày 10/5/2006 tại UBND xã T, huyện N, Thanh Hóa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn vì vợ chồng sống không hòa hợp và đã ly thân từ tháng 02/2017 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T làm đơn xin ly hôn với anh Y.

Về con chung: Chị và anh Y có 02 con chung tên là Mai Duy H, sinh ngày 01/02/2008 và Mai Hiểu P, sinh ngày 01/9/2013. Hiện chị đang trực tiếp nuôi cả hai con, nếu ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi cả hai con và không yêu cầu anh Y phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị và anh Y không có tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Y theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh Y không đến Tòa án làm việc nên không có ý kiến của anh, Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng vắng mặt anh Y nên chỉ tiến hành phiên họp đối với chị T và không tiến hành hòa giải được.

Tại biên bản xác minh ngày 01/3/2019, ý kiến của thôn trưởng thôn Trung Thành, xã T cho biết: Trường hợp vợ chồng chị T, anh Y cơ sở thấy rằng: Anh Y thỉnh thoảng đi làm ăn rồi lại về, dư luận có phản ánh, anh Y có quan hệ trai gái ngoài xã hội nên về nhà vợ chồng xảy ra va chạm, mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân lâu nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Anh Y và chị T có 02 con chung, chị T trực tiếp nuôi hai con, thỉnh thoảng anh Y về cũng không đến thăm vợ con mà chỉ ở nhà mẹ đẻ của anh Y.

Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên quan điểm của chị.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Mai Phương T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Nga Sơn.

Ngày 09/5/2019, Tòa án đã mở phiên tòa xét xử nhưng anh Y vắng mặt không có lý do nên phải hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227 BLTTDS. Tại phiên tòa hôm nay, anh Y vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh Y.

[2] Về hôn nhân: Chị Mai Phương T và anh Mai Chấn Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, vào ngày 10/5/2006 là hôn nhân hợp pháp. Nhưng theo như chị T trình bày thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn xuất phát từ tính tình không hợp, thường xảy ra xung đột nên đến đầu năm 2017, vợ chồng ly thân đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị T kiên quyết xin ly hôn, anh Y cố tình vắng mặt, điều đó chứng tỏ anh Y không còn tha thiết quay lại để vợ chồng chung sức xây dựng gia đình hạnh phúc nữa. Vì vậy, xử cho chị T được ly hôn anh Y là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Chị T và anh Y có 02 con chung: Mai Duy H, sinh ngày 01/02/2008 và Mai Hiểu P, sinh ngày 01/9/2013. Kể từ khi chị T và anh Y sống ly thân, chị T trực tiếp nuôi dưỡng hai con. Hiện nay anh Y, lúc ở nhà, lúc đi làm ăn xa, cuộc sống không ổn định, cháu H có nguyện vọng được ở với mẹ nên nghĩ cần giao cháu H và cháu P cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp thực tế và quy định của pháp luật. Chấp nhận đề nghị của chị T không yêu cầu anh Y phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị Mai Phương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Mai Phương T. Cho chị Mai Phương T được ly hôn anh Mai Chấn Y.

* Về con: Giao cháu Mai Duy H, sinh ngày 01/02/2008 và Mai Hiểu P, sinh ngày 01/9/2013 cho chị Mai Phương T trực tiếp nuôi dưỡng, anh Mai Chấn Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T. Anh Y có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung, không ai được cản trở

* Về án phí: Chị Mai Phương T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0004993 ngày 12/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nga Sơn. Chị T đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Chị Mai Phương T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Mai Chấn Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 28/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về