Bản án 19/2018/HS-ST ngày 28/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 28/08/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18 /2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức C, sinh năm 1975 tại Q, Thái Bình;

Nơi cư trú: thôn Q, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh;

Giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Đức C1 và bà Nguyễn Thị S;

Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án: Có một tiền án, tại bản án số 202/HSST ngày 22/8/1998 của TAND tỉnh Đắk Lắk xử phạt tù chung thân, bản án phúc thẩm số 886/HSPT ngày 18/11/1998 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng xét xử, y án sơ thẩm, xử phạt tù chung thân đối với bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Giết người”, ngày 30/8/2013 chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Không;

Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1957

Địa chỉ: tổ dân phố x, thị trấn B, huyện K, có mặt.

Cháu Hồ Lê Đức A, sinh năm 2008 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

Ông Hồ Văn D, bà Lê Thị H1 (cha mẹ cháu A)

Địa chỉ: thôn H, xã Ea, huyện K, Đắk Lắk. (ông D có mặt, bà H1 vắng mặt);

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

- Chị Lê Thị Ngọc D1 (vắng mặt); anh Lê Quang C1 (có mặt).

Địa chỉ: thôn H, xã Ea, huyện K, Đắk Lắk.

- Chị Trần Thị Thu H2 (vắng mặt).

Địa chỉ: thôn H, xã Ea, huyện K, Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 03/12/2017, Nguyễn Đức C (không có giấy phép lái xe máy kéo theo quy định) điều khiển xe máy kéo, nhãn hiệu YANMAR YM 2310D, không biển kiểm soát kéo theo Rơ-móoc (xe máy kéo Rơ moóc) lưu thông trên đường tỉnh lộ S, huyện K, tỉnh Đăk Lăk, đi theo hướng từ thị trấn B về thành phố B1. Khi đến gần trụ điện số K8, đoạn km17+60m, đường tỉnh lộ S, thuộc địa phận thôn H, xã Ea, huyện K, thì phát hiện phía trước có cháu Hồ Lê Đức A (sinh năm 2008) đang điều khiển xe đạp đi qua đường theo hướng từ bên phải sang phần đường bên trái theo hướng đi của xe máy kéo Rơ moóc, do C điều khiển xe máy kéo Rơ moóc đi nhanh trong lúc trời mưa, đường ẩm ướt và đi không đúng phần đường quy định, không làm chủ tay lái nên khi phát hiện thấy cháu A đang đạp xe đạp qua đường thì C đạp phanh xe, làm bánh xe máy kéo Rơ moóc chà trượt trên đường (vết phanh 11,4m) và đánh lái xe về bên trái phần đường theo hướng đi để mặt trước bên phải tời xe máy kéo Rơ moóc tông vào xe đạp của cháu A đang điều khiển đi sang hết phần đường bên trái theo hướng đi của xe máy kéo Rơ moóc, làm cháu A bị ngã, bánh xe sau bên phải của xe máy kéo và bánh xe Rơ moóc bên phải cán qua người cháu A, gây tai nạn. Xe máy kéo Rơ moóc do C điều khiển tiếp tục chạy bên trái theo hướng đi và tông vào xe mô tô biển kiểm soát 47P4-xxx do ông Nguyễn Thanh H đang điều khiển đi theo hướng ngược lại, làm ông H và xe mô tô ngã xuống đường bị bánh xe bên phải của xe Rơ moóc xe máy kéo cán lên xe mô tô và chân trái của ông H, gây tai nạn. Hậu quả, làm cháu Hồ Lê Đức A chết trên đường đi cấp cứu. Ông Nguyễn Thanh H bị thương tích, xe đạp và xe mô tô biển kiểm soát 47P4 - xxx bị hư hỏng.

Tại bản kết luận pháp y tử thi số 92/GĐPY, ngày 20/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Lăk, kết luận: Nguyên nhân tử vong của cháu Hồ Lê Đức A là đa thương đầu mặt, ngực, lưng, tứ chi, gây nên thương tổn vỡ xương sọ thành nhiều mảnh, tổn thương não nặng, tụ máu và chảy máu vào khoang miệng - hầu họng, dẫn đến choáng não và suy hô hấp cấp không hồi phục.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số 595/PY-TgT, ngày 08/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đăk Lăk, kết luận: ông Nguyễn Thanh H bị đa thương, gãy thân xương đùi trái và dập động mạch đùi, teo cơ đùi, cẳng chân trái, tỉ lệ thương tích 51%, tạm thời trong 12 tháng.

Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn, được thể hiện như sau:

- Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là đoạn km 17+60m, đường tỉnh lộ S thuộc địa phận thôn H, xã Ea, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, mặt đường rải nhựa, rộng 5,26m, ở giữa mặt đường có vạch màu vàng nét đứt, trạng thái đường ẩm ướt.

- Hướng khám nghiệm từ thị trấn B đi thành phố B1 (hướng Nam đến Bắc), lấy mép đường bên trái làm chuẩn và mốc cố định là trụ điện số K8.

+ Vị trí số 1: Xe mô tô mang biển kiểm soát 47P4-xxx trong trạng thái xe

nằm ngã sang bên phải, có chiều hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc, xe nằm ở phần đường bên trái, đầu xe nằm ngoài lề đường, đuôi xe nằm trên mặt đường tỉnh lộ 2, trục bánh xe trước cách mép đường 0,57m, trục bánh xe sau cách mép đường 0,3m.

+ Vị trí số 2: Xe đạp nằm ngoài lề đường bên trái, xe trong trạng thái nằm ngã sang bên phải, có chiều hướng từ Nam sang Bắc. Trục bánh xe trước cách mép đường 1,67m, cách trục bánh xe trước của xe mô tô 47P4 – xxx là 2,25m. Trục bánh xe sau cách mép đường 0,76m và cách trục bánh xe sau của xe mô tô 47P4 - xxx là 1,5m.

+ Vị trí số 3: Vết máu, kích thước (0,7 x 0,5)m, không rõ hình dạng, nằm bên phần đường bên trái. Tâm vết cách mép đường 0,3m, cách trục bánh xe sau của xe mô tô 47P4 - xxx là 4,4m.

+ Vị trí số 4: Vết phanh có chiều dài 11,9m, rộng 9cm, có chiều hướng từ Đông Bắc sang Tây Nam, hình dạng thẳng. Đầu vết cách mép đường 1,9m, cuối vết cách mép đường 1,2m, cách trục bánh xe sau của xe mô tô 47P4 - xxx là 10,6m và cách trục bánh xe sau của xe đạp (2) là 9,6m.

+ Vị trí số 5: Trụ điện K8 nằm ngoài lề đường bên phải, cách trục bánh xe trước của xe mô tô 47P4 - xxx là 23,5m.

+ Vị trí số 6: Xe máy kéo, không biển kiểm soát nằm ngoài lề đường bên trái chiều hướng từ Đông sang Tây. Trục bánh xe trước bên phải cách mép đường 1m, trục bánh xe trước bên trái cách mép đường 2,13m, trục bánh xe sau bên phải cách mép đường 0,98m, trục bánh xe sau bên trái cách mép đường 2,46m. Trục bánh xe bên phải của móoc (thùng) cách mép đường 0,8m và cách trục bánh xe trước của xe mô tô 47P4 - xxx là 8,3m, trục bánh xe bên trái của Rơ-móoc cách mép đường 2,7m.

+ Vị trí số 7: Vị trí tử thi, nằm bên phần đường bên trái, chiều hướng từ Nam sang Bắc, phần đầu cách mép đường 1,47m.

+ Vị trí số 8: Vùng va chạm, kích thước (0,5 x 0,5)m nằm bên phần đường bên trái, hướng Đông của vị trí số (7), tâm vùng va chạm cách mép đường2,15m, cách đầu của tử thi (7) là 1,04m và cách trục bánh xe sau của xe mô tô 47P4 - xxx là 5,54m. Điểm va chạm đầu tiên giữa xe máy kéo không biển kiểm soát và xe đạp màu đen là tâm vùng va chạm, ký hiệu là X.

+ Vị trí X1: Điểm va chạm tương ứng trên mặt đường giữa xe máy kéo và xe mô tô 47P4 - xxx, cách mép đường bên trái 0,6m, cách trục bánh sau xe mô tô 1,5m, cách điểm X 4,1m và cách trụ điện K8 là 27m.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Ana đã tạm giữ: 01 (một) xe đầu kéo màu đỏ, không biển kiểm soát, nhãn hiệu YANMAR YM 2310D kéo theo Rơ-moóc màu xanh; 01 xe mô tô biển kiểm soát 47P4-xxx và 01 chiếc xe đạp màu đen, nhãn hiệu X-Game, có in chữ Exercise để phục vụ công tác điều tra.

Cáo trạng số 19/CT-VKS-HS ngày 15/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana truy tố bị cáo Nguyễn Đức C về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của BLHS 2015.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đức C, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Về hình phạt, đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, đại điện hợp pháp của bị hại cháu Hồ Lê Đức A là ông Hồ Văn D (là cha ruột của cháu A) đã kê khai yêu cầu bồi thường các khoản tiền chi phí mai táng, tiền bù đắp tổn thất tinh thần, các khoản tiền chi phí khác, tổng cộng: 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Bị cáo C đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho gia đình ông D số tiền 80.000.000 đồng. ông Hồ Văn D, bà Lê Thị H1 làm đơn bãi nại, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra, bị hại ông Nguyễn Thanh H đã kê khai yêu cầu bồi thường các khoản tiền chi phí điều trị thương tích, tiền sửa chữa xe mô tô 47P4 - xxx bị hử hỏng, tổng cộng: 24.700.000. Bị cáo Nguyễn Đức C đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho ông H số tiền: 24.700.000 đồng. Ông H đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu bị cáo C phải bồi thường khoản tiền nào khác.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Chấp nhận việc cơ quan CSĐT đã trả lại các vật chứng vụ án cho bị cáo, bị hại tại Quyết định xử lý vật chứng số 10a/QĐXLVC (TH) ngày 15/3/2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Ana, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai người biết sự việc, phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường dựng lại; biên bản khám nghiệm phương tiện và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Đức C không có giấy phép lái xe máy kéo theo quy định, vào lúc khoảng 17 giờ 45 phút ngày 03/12/2017 C điều khiển xe máy kéo, nhãn hiệu YANMAR YM 2310D, không biển kiểm soát kéo theo Rơ-móoc, đi theo hướng từ thị trấn B, huyện K về thành phố B1 để về xã E, huyện K, khi đến đoạn km 17 + 60m, đường tỉnh lộ S, thuộc địa phận thôn H, xã Ea, huyện K, do C không làm chủ tốc độ, (tại kết luận giám định số: 215/PC54 ngày 05/02/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận vận tốc của xe máy kéo ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn là từ 30,11 km/h đến 34,77km/h ), khi phát hiện thấy cháu Hồ Lê Đức A đi xe đạp qua đường đã không xử lý kịp, điều khiển xe tránh sang bên trái phần đường theo hướng đi, gây tai nạn giao thông, hậu quả làm cháu Hồ Lê Đức A tử vong và ông Nguyễn Thanh H bị thương tích tỷ lệ 51% tạm thời 12 tháng. Do bị cáo C vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, vi phạm điều cấm “Không có giấy phép lái xe theo quy định” quy định tại khoản 9 điều 8 Luật giao thông đường bộ; và quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo hướng đi của mình, đi đúng phần đường, làn đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đức C đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a và điểm đ khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999. 

Điều 202 BLHS năm 1999 quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.”

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a/ không có giấy phép họăc bằng lái theo quy định của pháp luật;

...

đ/ gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Do bị cáo phạm tội trước ngày 01/01/2018 (ngày Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực). Khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 không quy định tình tiết định khung “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”. Căn cứ Nghị quyết số 41/QH14 của Quốc hội về thi hành Bộ lụât hình sự, căn cứ khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 xét xử đối với bị cáo là phù hợp.

Điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS 2015 quy định “ Điều 260 Bộ luật hình sự quy định.

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

................................

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định”............

[3] Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana truy tố bị cáo về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 là đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong giai đoạn điều tra bị cáo tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại, người bị hại. bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, giúp bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, đại điện hợp pháp cho bị hại cháu Hồ Lê Đức A là ông Hồ Văn D (là cha ruột của cháu A) đã kê khai yêu cầu bồi thường các khoản tiền chi phí mai táng, tiền bù đắp tổn thất tinh thần tổng cộng: 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Bị cáo C đã tự nguyện bồi thường cho gia đình ông D số tiền 80.000.000 đồng. ông D, bà H1 không yêu cầu bồi thường gì thêm nên cần ghi nhận.

Quá trình điều tra, bị hại ông Nguyễn Thanh H đã kê khai yêu cầu bồi thường các khoản tiền chi phí điều trị thương tích, tiền sửa chữa xe mô tô 47P4- xxx bị hử hỏng, tổng cộng: 24.700.000. Bị cáo C đã tự nguyện bồi thường cho ông H 24.700.000 đồng. Ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên cần ghi nhận sự thỏa thuận trên.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy kéo, nhãn hiệu YANMAR YM 2310D, không biển kiểm soát kéo theo Rơ móoc chủ sở hữu là của bị cáo Nguyễn Đức C; Xe mô tô 47P4 –xxx chủ sở hữu là của ông Nguyễn Thanh H và chiếc xe đạp cháu Hồ Lê Đức A đi là của ông Hồ Văn D (cha ruột cháu A) nên ngày 16/3/2018 Cơ quan điều tra đã ra Quyết đinh xử lý vật chứng, trao trả các phương tiện trên cho Nguyễn Đức C, ông Nguyễn Thanh H và anh Hồ Văn D là các chủ sở hữu, là đúng quy định của pháp luật nên không đề cập xử lý.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào: Điểm a, đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức C 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho ông Hồ Văn D, bà Lê Thị H1 là đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 80.000.000đ, bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh H số tiền 24.700.000đ.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Đức C phải chịu án phí HSST là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo và bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án họăc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 28/08/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về