Bản án 19/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 19/2018/HS-ST NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 4 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2018/TLST-HS, ngày 16 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Đinh Trọng P, sinh ngày 19 tháng 3 năm 1971, tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi cư trú: Số 19 đường T, khối 7, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Trọng Q (đã chết) và bà Đỗ Thị N (đã bỏ nhà đi từ khi bị cáo còn nhỏ); có vợ: Đỗ Thị Phương L, sinh năm 1975 và 03 con, lớn nhất sinh năm  2006, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 30/7/1988 trộm cắp tài sản bị Công an thị xã Lạng Sơn phạt cảnh cáo, ngày 11/6/1990 trộm cắp tài sản bị Công an thị xã Lạng Sơn phạt cảnh cáo, ngày 12/7/1989 Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản, ngày 22/6/1990 Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 năm tù về tội cướp tài sản; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 24/11/2017 đến nay “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Đỗ Thị Phương L, sinh năm 1975.

Nơi cư trú: Số 19 đường T, khối 7, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn “có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1, Anh Nông Trí C “vắng mặt”.

2, Anh Giáp Trung Đ “vắng mặt”.

- Người chứng kiến:

Chị Đới Thị H “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ ngày 24/11/2017, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc làm nhiệm vụ tại khối 5, thị trấn C, huyện C phát hiện 01 người nam giới điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát: 12P1-139.77 hướng từ thành phố L vào thị trấn C có biểu hiện nghi vấn hoạt động tội phạm ma túy, tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác người này đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá JET bên trong có 02 gói giấy bạc màu trắng có chứa chất bột màu trắng, người này khai nhận họ, tên là Đinh Trọng P, sinh năm 1971, trú tại: số 19 đường T, khối 7, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, 02 gói giấy bạc có chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine P mua ở khu vực chợ Đ, thành phố L đang trên đường mang đi bán cho người nghiện để kiếm lời. Tổ công tác đã đưa P cùng vật chứng về trụ sở Công an huyện Cao Lộc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận giám định số: 16/KL-PC54 ngày 27/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn xác định chất bột màu trắng có trong 02 (hai) gói giấy bạc gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng 0,139 gam (đã trừ bì).

Xét thấy hành vi của Đinh Trọng P thực hiện có dấu hiệu tội phạm, ngày 27/11/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh tạm giam để điều tra làm rõ.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Đinh Trọng P khai nhận:

Bản thân P là người nghiện ma túy. Ngoài công việc chạy xe ôm, P còn mua ma túy về bán lại cho người nghiện kiếm lời. Khoảng 8 giờ ngày 24/11/2017, khi P đang hành nghề xe ôm tại ngã tư thị trấn C thì có một người đàn ông lái xe công te nơ không rõ tên tuổi địa chỉ đến nhờ P mua hộ ma túy và hẹn đợi lấy ở ngã tư P, xã H, thành phố L, P nhận lời và đến khu vực chợ B thuộc thành phố L mua với một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên tuổi địa chỉ 01 gói ma túy giá 200.000đ và đem đến ngã tư P bán lại cho người đàn ông lái xe công te nơ với giá 250.000đ. Đến khoảng 9 giờ cùng ngày khi P đang ở ngã tư C thì có 02 thanh niên đi xe mô tô hiệu Dream không rõ tên tuổi địa chỉ đến gặp P đặt mua ma túy và hẹn lấy ở bãi đất trống thuộc khu P, thành phố L, P nhận lời sau đó tiếp tục đi đến khu vực chợ B mua 01 gói ma túy giá 200.000đ với người đàn ông đã bán ma túy trước đó mang đến khu vực bãi đất trống thuộc khu P bán lại cho hai thanh niên đi xe mô tô hiệu Dream giá 230.000đ. Sau khi bán ma túy P quay trở về nhà, đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, có một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ qua điện thoại đặt vấn đề mua 02 gói ma túy giá 300.000đ và hẹn nhận tại ngã tư thị trấn C, P đồng ý rồi tiếp tục ra chợ B mua của người đàn ông vẫn thường bán ma túy 02 gói ma túy giá 300.000đ. Khi mua được ma túy P dự định sẽ bán cho người đàn ông đã đặt từ 320.000đ đến 350.000đ/ 02 gói ma túy Heroine. Khi P đang trên đường đi bán ma túy đến khu vực Khối 5, thị trấn C thì bị lực lượng Công an huyện Cao Lộc phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra xác định trước đó vào khoảng tháng 10/2017 P đã nảy sinh ý định bán trái phép chất ma túy. Từ khi bắt đầu bán ma túy đến khi bị bắt giữ P đã bán cho Nông Trí C, sinh năm 1982, trú tại: tổ 1, khối 6, thị trấn C, huyện C hai lần, mỗi lần 01 gói giá 250.000đ; Bán cho Giáp Trung Đ, sinh năm 1991, trú tại tổ 2, khối 9, thị trấn C 04 lần, mỗi lần 01 gói giá 220.000đ. Lần gần nhất bán cho Đ là ngày 19/11/2017. Ngoài ra còn bán cho P1 ở thị trấn C không rõ họ, địa chỉ cụ thể 02 lần, mỗi lần 01 gói giá 120.000đ.

Bản Cáo trạng số 16/CT-VKS, ngày 14/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đinh Trọng P tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi pham tội của mình như tại cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viên kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Trọng P phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự năm 1999, đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Trọng P từ 07 đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: phong bì dán kín bên trong là phần mẫu vật phẩm ma túy hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu đen bên trong có 02 mảnh giấy bạc; 01 kéo cắt giấy có cán nhựa màu vàng; 02 lưỡi dao tem có in chữ LORD.

Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh thư nhân dân số 080993144 mang tên Đinh Trọng P; 01 xe mô tô hiệu HONDA WAVE màu đen - bạc cùng đăng ký xe mô tô số 006733 mang tên Đinh Trọng P; số tiền 200.000đ.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoai di động màu trắng nhãn hiệu IPHONE có số IMEL 013181002478306; số tiền 80.000đ.

Truy thu số tiền 1.380.000đ bị cáo bán ma túy mà có được trừ đi số tiền 80.000đ, bị cáo còn phải nộp 1.300.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình, khoảng 11 giờ ngày 24/11/2017 tại khu vực khối 5, thị trấn C, huyện C, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc phát hiện bắt quả tang bị cáo Đinh Trọng P có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ 02 gói giấy bạc có chứa chất bột màu trắng theo Kết luận giám định là chất ma túy Heroine có tổng trọng lượng 0,139 gam. Quá trình điều tra làm rõ bị cáo P bắt đầu bán ma túy từ tháng 10/2017, từ khi bán ma túy đến khi bị bắt đã bán ma túy cho Nông Trí C 02 lần, mỗi lần 01 gói giá 250.000đ; bán cho Giáp Trung Đ 04 lần, mỗi lần 01 gói giá 220.000đ, lần gần nhất bán cho Đ là ngày 19/11/2017. Ngoài ra còn bán ma túy nhiều lần cho nhiều người nghiện khác không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đinh Trọng P phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

[2] Cáo trạng số 16/CT-VKS, ngày 14/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đinh Trọng P phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra, truy tố quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân là người nghiện ma túy nên hiểu được tác hại của ma túy đối với con người, cộng đồng và xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những người nghiện ma túy hủy hoại sức khỏe, nhân phẩm của mình, và đó cũng là nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe, làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[5] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt; về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu vì đã từng có tiền án, tiền sự; về tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; ngoài hành vi bị bắt quả tang bị cáo còn khai ra các lần phạm tội mua bán ma túy trước đó nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự thú quy định tại điểm 0 khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, bị cáo có bố để là ông Đinh Trọng Q được thưởng huân chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

[6] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có nhân thân xấu vì đã từng có tiền án và tiền sự nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội mà cố tình phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe, làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[9] Người đàn ông bán ma túy ở khu vực chợ Đ, thành phố L do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

[10] Đối với Nông Trí C, Giáp Trung Đ có hành vi mua ma túy trái phép với bị cáo Đinh Trọng P để sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã lập hồ sơ người nghiện chuyển đến Công an địa phương nơi cư trú xử lý theo quy định pháp luật.

[11] Đối với người tên P1 ở thị trấn C theo khai nhận có hành vi mua ma túy với bị cáo để sử dụng, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người như bị cáo mô tả.

[12] Đối với người đàn ông lái xe công te nơ và hai thanh niên đi xe Dream do bị cáo P không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

[13] Về vật chứng của vụ án đã làm rõ: 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy nên tịch thu tiêu hủy; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET không còn giá trị sử dụng nên tiêu hủy; 01 Chứng minh thư nhân dân số 080993144 mang tên Đinh Trọng P không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo; 01 xe mô tô hiệu HONDA WAVE màu đen - bạc cùng đăng ký xe mô tô số 006733 mang tên Đinh Trọng P là tài sản chung của gia đình bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lại hàng ngày nên trả lại cho bị cáo; 01 điện thoai di động màu trắng nhãn hiệu IPHONE có số IMEL 013181002478306 là của bị cáo sử dụng để liên lạc hàng ngày và đã sử dụng liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước; số tiền 280.0000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong đó có 80 000đ là tiền bị cáo bán ma túy mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước, 200.000đ là tiền bị cáo làm nghề xe ôm mà có nên trả lại cho bị cáo; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu đen bên trong có 02 mảnh giấy bạc; 01 kéo cắt giấy có cán nhựa màu vàng; 02 lưỡi dao tem có in chữ LORD không còn giá trị sử dụng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu lấy lại nên tịch thu tiêu hủy; cần truy thu số tiền bị cáo bán ma túy mà có là 1.380.000đ được trừ đi số tiền 80.000đ, bị cáo còn phải nộp truy thu là 1.300.000đ.

[14] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 194; điểm 0, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tuyên bố bị cáo Đinh Trọng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đinh Trọng P 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 24 tháng 11 năm 2017.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín bên trong là phần mẫu vật phẩm ma túy hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET; 01 hộp nhựa hình trụ tròn màu đen bên trong có 02 mảnh giấy bạc; 01 kéo cắt giấy có cán nhựa màu vàng; 02 lưỡi dao tem có in chữ LORD.

Trả lại cho bị cáo Đinh Trọng P: 01 Chứng minh thư nhân dân số 080993144 mang tên Đinh Trọng P; 01 xe mô tô hiệu HONDA WAVE màu đen - bạc biển kiểm soát 12P1- 139.77, cùng đăng ký xe mô tô số 006733 mang tên Đinh Trọng P. Trả lại cho bị cáo số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoai di động màu trắng nhãn hiệu IPHONE có số IMEL 013181002478306; số tiền 80.000 đồng (tám mươi nghìn đồng).

Bị cáo Đinh Trọng P phải nộp truy thu số tiền 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng) để sung quỹ nhà nước.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thị hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 3 năm 2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đinh Trọng P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về