Bản án 19/2018/DS-ST ngày 29/08/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 19/2018/DS-ST NGÀY 29/8/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐÓNG HỤI

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2018/TLST-DS ngày 25 tháng 6 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi (họ)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2018/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Thị T(vắng mặt);

Địa chỉ: Số 8, ấp Tân H, xã Long H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh Đ (có mặt);

Địa chỉ: Số 4, đường Nguyễn H, khóm , phường , thành phố Sóc T, tỉnh Sóc T (Theo giấy ủy quyền ngày 15 tháng 5 năm 2018).

2. Bị đơn: Nguyễn Thị T (có mặt);

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn D (vắng mặt);

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Dũng: Nguyễn Thị T (có mặt);

Cùng địa chỉ: Số 1, ấp Thiện T, xã Thuận H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (Theo giấy ủy quyền ngày 27 tháng 8 năm 2018).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 23 tháng 5 năm 2018 của nguyên đơn bà Lê Thị T và trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Minh Đ, là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị T là chủ hụi, bà T là hụi viên, bà T mở hụi tháng, kỳ mở hụi thứ nhất vào ngày 30 tháng 02 năm 2016, hụi 2.000.000 đồng/phần, hụi khui vào ngày cuối cùng của tháng, dây hụi có 30 phần, bà T tham gia 01 phần. Sau khi bà T và các hụi viên tham gia góp hụi đến kỳ thứ 14 thì bà Nguyễn Thị T tuyên bố vỡ hụi và ngưng việc khui hụi.

Đến ngày 15/3/2018, bà T có làm biên nhận nợ bà T số tiền là 28.000.000 đồng và cam kết đến ngày 15/5/2018 sẽ trả đủ, nhưng đến nay bà T vẫn chưa trả.

Bà Lê Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Văn D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền 28.000.000 đồng.

Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, nhưng bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ bị đơn lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vắng mặt. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; biên bản không tiến hành hòa giải được và thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Nguyễn Thị T thừa nhận còn nợ nguyên đơn bà Lê Thị T số tiền hụi 28.000.000 đồng, bà T đồng ý trả cho bà T nhưng hiện nay hoàn cảnh bà T rất khó khăn, bản thân bị bệnh và bà T nợ rất nhiều người, không có khả năng trả một lần cho bà T được, bà T xin trả mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi dứt nợ.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 26 tháng 7 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D trình bày:

Ông D thừa nhận bà Nguyễn Thị T là vợ của ông Nguyễn Văn D có làm chủ hụi, vợ chồng ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị T còn thiếu bà T số tiền hụi 28.000.000 đồng, nhưng hiện nay vợ chồng ông D nợ rất nhiều người, không có khả năng trả ngay cho bà T được, vợ chồng ông D yêu cầu trả hàng tháng, mỗi tháng trả số tiền 2.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ hoặc cho vợ chồng ông D trả một lần vào vụ đông xuân cuối tháng 3/2019.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T. Buộc bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan liên đới trả cho nguyên đơn số tiền hụi còn nợ 28.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Hội đồng xét xử nhận thấy, nguyên đơn và bị đơn tổ chức mở hụi, do bị đơn là chủ hụi còn nguyên đơn là hụi viên. Trong quá trình mở hụi, bị đơn không thực hiện đúng như thỏa thuận nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng liên đới trả số tiền hụi còn thiếu. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng góp hụi.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng góp hụi theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn là bà Nguyễn Thị T có địa chỉ số 1, ấp Thiện T, xã Thuận H, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc Trăng, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Bà T và ông D thừa nhận còn thiếu bà T số tiền hụi là 28.000.000 đồng bà T thống nhất. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử khẳng định bà T và ông D thiếu bà T số tiền hụi 28.000.000 đồng là sự thật.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, về việc yêu cầu vợ chồng bị đơn liên đới trả số tiền hụi còn nợ cho nguyên đơn 28.000.000 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy, Theo quy định tại Điều 29 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường quy định.Căn cứ quy định này bà T khởi kiện yêu cầu bà T và ông D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền hụi còn thiếu là 28.000.000 đồng.

[5] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D tuy ông D không tham gia làm chủ hụi, nhưng sự việc bà T mở hụi ông D biết. Xét thấy, theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình "Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện..." bà T và ông D là vợ chồng, ông D biết nhưng ông D không phản đối và ông D cũng thừa nhận số nợ hụi của bà T yêu cầu. Hơn nữa số tiền hụi phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, bà T dùng số tiền để phục vụ chi phí trong gia đình nên vợ chồng phải có trách nhiệm. Do đó bà T yêu cầu bà T và ông D có trách nhiệm liên đới trả tiền nợ hụi là có cơ sở chấp nhận.

[6] Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T xin trả mỗi tháng 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu của bà T không có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về an phi dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bà T và ông D liên đới phải chịu là 1.400.000 đồng. Bà T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92; khoản 1 Điều 273 và khoan 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005. Điều 27 luật hôn nhân và gia đình. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T. Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn D có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn bà Lê Thị T số tiền hụi là 28.000.000 đồng (Hai mươi tám triệu đồng)

2. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn phải trả lãi cho nguyên đơn theo mức lãi suất 10%/năm, đối với số tiền chậm thi hành án.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Văn D liên đới phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.400.000 đồng;

- Nguyên đơn bà Lê Thị T không phải chịu án phí sơ thẩm, nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 700.000 đồng, theo biên lai số 0000044 ngày 18/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trinh tư phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 19/2018/DS-ST ngày 29/08/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:19/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về