Bản án 191/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 191/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 318/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 109/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; nơi cư trú: Thôn Ct, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Việt H; nơi cư trú: Thôn N, xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 20/07/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 90 ngày 31 tháng 10 năm 2003 tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân nhau. Nay, chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Việt H.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị H khai chị và anh Lê Việt H có 01 con chung là Lê Nguyễn Thanh T, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2014, hiện chị H đang trực tiếp nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Lê Nguyễn Thanh T.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H khai chị và anh Lê Việt H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H khai chị và anh Lê Việt H không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 18 tháng 8 năm 2021, anh Lê Việt H (bị đơn) khai:

Về hôn nhân: Anh Lê Việt H thừa nhận lời khai của chị Nguyễn Thị H về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị H xin ly hôn, quan điểm của anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh H đồng ý ly hôn chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Anh Lê Việt H khai anh và chị Nguyễn Thị H có 01 con chung là Lê Nguyễn Thanh T, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2014, hiện chị H đang trực tiếp nuôi con. Trường hợp ly hôn, anh H đồng ý để chị H được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H khai anh và chị Nguyễn Thị H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Lê Việt H khai anh và chị Nguyễn Thị H không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh H. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H và anh H được ly hôn.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H có 01 con chung là Lê Nguyễn Thanh T, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2014. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Nguyễn Thanh T cho đến khi con Lê Nguyễn Thanh T đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Lê Việt H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H được xác lập vào năm 2003 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt. Do mâu thuẫn nên chị H và anh H hiện đã sống ly thân nhau. Chị H xin ly hôn, quan điểm của anh H cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn chị H. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H có 01 con là Lê Nguyễn Thanh T, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2014, hiện chị H đang trực tiếp nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay chị H là người trực tiếp nuôi con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Nguyễn Thanh T cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên.,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Lê Việt H.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Nguyễn Thanh T, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2014 cho đến khi con Lê Nguyễn Thanh T đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0016036 ngày 30 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, chị Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị H, anh Lê Việt H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:191/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về