Bản án 191/2020/HSST ngày 11/09/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 191/2020/HSST NGÀY 11/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2020/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 156/2020/QĐXXST-HS ngày 17/7/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2020/HSST-QĐ ngày 11/8/2020 đối với các bị cáo:

1. Trần Thanh D (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1975 tại tỉnh TG. Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Thanh Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1948; Gia đình có bốn chị em, bị cáo là con thứ tư; Họ và tên vợ: Trần Thị Ng, sinh năm 1982; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (có mặt).

2. Lê Văn Tú E (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 02 tháng 4 năm 1994 tại tỉnh ĐT. Nơi cư trú: ấp B, xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: ấp T, xã H, huyện T.B, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S, sinh năm 1973 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1969; Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ hai; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (có mặt).

3. Nguyễn Văn Tự E (Tên gọi khác: Không), năm 1989 tại tỉnh ĐT. Nơi cư trú: ấp C, xã P, huyện H.N, tỉnh Đồng Tháp. Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968 và bà Huỳnh Thị G, sinh năm 1965; Gia đình có ba anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Họ và tên vợ: Hà Thị Bích Tr, sinh năm 1990. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại. (có mặt).

4. Phan Văn D (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1966 tại tỉnh A.G. Nơi cư trú: ấp N.H, xã N, huyện C.M, tỉnh An Giang. Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Văn Nh (đã chết) và con bà Lê Thị Đ (đã chết). Gia đình có chín anh chị em, bị cáo là con thứ chín. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (có mặt).

5. Huỳnh Thanh H1 (Tên gọi khác: Tý), sinh ngày 09 tháng 01 năm 1995 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: ấp T, xã H, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Thanh Tr, sinh năm 1970 và bà Huỳnh Thị Kim Đ, sinh năm 1972. Gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ nhất. Họ và tên vợ: Hoàng Thị Ph, sinh năm 1996. Bị cáo có 01 con sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (có mặt).

6. Hồ Thị Xuân H2 (Tên gọi khác: Sáu H2), sinh năm 1973 tại tỉnh Đồng Tháp. Nơi cư trú: khóm 5, thị trấn T.C, huyện T.N, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: ấp T, xã H, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1944. Gia đình có chín chị em, bị cáo là con thứ năm. Họ và tên chồng: Võ Văn X, sinh năm 1971. Bị cáo có ba con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại (có mặt).

Người làm chứng:

- Ông Võ Văn X, sinh năm 1971. (vắng mặt)

- Chị Hồ Thị Ch, sinh năm 1981. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 02/04/2020, Trần Thanh D đến phòng trọ số 4, khu nhà trọ thuộc ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để gặp và nói với Hồ Thị Xuân H2 cho D cùng các con bạc mượn phòng của H2 để đánh bạc, nếu ai thắng sẽ cho H2 tiền thì H2 đồng ý. H2 đi mua cho D 2 bộ bài tây 52 lá, sau đó D sử dụng 01 bộ để đánh bạc bằng hình thức “Cào Ấn Độ” (Binh Ấn Độ) với 03 người (không rõ nhân thân, lai lịch), khi đánh được khoảng 03 đến 04 ván thì 03 người này nghỉ chơi ra về. Lúc này có Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Huỳnh Thanh H1 và Phan Văn D tới cùng tham gia đánh bài “Cào Ấn Độ” ăn tiền với D. Đến 21 giờ 50 phút cùng ngày khi D cùng Tú E, Tự E, H1 và D đang đánh bạc thì bị bắt quả tang. Thu giữ vật chứng gồm: 02 bộ bài tây 52 lá (01 bộ đã qua sử dụng, 01 bộ chưa sử dụng); số tiền 11.700.000 đồng trên chiếu bạc và 9.000.000 đồng trên người các con bạc; 04 điện thoại di động gồm (01 điện thoại Iphone 7 màu hồng, số sim: 0901516827;

01 điện thoại Iphone 6 màu xám, số sim: 0346669927; 01 điện thoại OPPO màu đen tím, số sim: 0978488304 và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen, số sim: 0333887199) (bút lục 01-05) Cách thức đánh bạc như sau: Quá trình đánh bạc người cầm cái sử dụng bộ bài tây 52 lá chia cho mỗi người chơi 06 lá bài, người chơi sắp xếp 06 lá bài thành 02 chi bài, mỗi chi 03 lá bài, sắp xếp chi trên điểm nhỏ hơn hoặc bằng chi dưới, sau đó cộng điểm của 03 lá bài trong từng chi để tính điểm. Người chơi so sánh điểm 02 chi bài với người làm cái để tính thắng thua, chi có 03 lá bài có hình người là lớn nhất, sau đó nhỏ dần từ 9 nút đến 0 nút, nếu người cầm cái thắng cả 02 chi bài thì sẽ thắng tiền cược của con bạc, nếu thắng 01 chi, thua 01 chi thì H1 tiền, nếu thua cả 02 chi thì thua tiền cho con bạc số tiền bằng số tiền của con bạc đặt cược trong ván đó. Mỗi ván đặt tiền cược từ 100.000 đồng- 300.000 đồng, tính thắng thua trực tiếp với người cầm cái.

Khi tham gia đánh bạc Trần Thanh D trực tiếp làm cái ăn thua với các con bạc khác. D mang theo 9.600.000 đồng, sử dụng 1.600.000 đồng để đánh bạc, thua 400.000 đồng, khi bị bắt thu giữ 1.200.000 đồng trên chiếu bạc, 8.000.000 đồng trên người; Lê Văn Tú E mang theo và sử dụng 3.800.000 đồng để đánh bạc, thua 400.000 đồng. Khi bị bắt thu giữ 3.400.000 đồng trên chiếu bạc; Nguyễn Văn Tự E mang theo và sử dụng 2.800.000 đồng khi bị bắt thu giữ 2.800.000 đồng trên chiếu bạc; Phan Văn D mang theo và sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, thua 400.000 đồng. Khi bị bắt, thu giữ 600.000 đồng trên chiếu bạc, 1.000.000 đồng trên người; Huỳnh Thanh H1 mang theo và sử dụng 2.300.000 đồng để đánh bạc, thắng 1.400.000 đồng. Khi bắt bị thu giữ 3.700.000 đồng trên chiếu bạc;

Hồ Thị Xuân H2 là người thuê phòng trọ số 04 giúp sức mua cho D 02 bộ bài tây 52 lá và đồng ý cho các bị cáo sử dụng phòng của H2 đánh bạc để thu tiền xâu, Trong quá trình đánh bạc, H2 được tiền xâu của Trần Thanh D 02 lần, với tổng số tiền là 60.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 170/CT-VKS-TB ngày 12/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với các bị cáo về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố các bị cáo Trần Thanh D, Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1, Hồ Thị Xuân H2 phạm tội đánh bạc. Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt: Bị cáo Trần Thanh D từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng; xử phạt các bị cáo Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1, Hồ Thị Xuân H2 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 bộ bài tây đã qua sử dụng đề nghị Toà tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 12.760.000 đồng các bị cáo dùng vào việc đánh bạc, đề nghị Tòa án tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Thanh D, Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1, Hồ Thị Xuân H2 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã có đủ căn cứ kết luận: Vào lúc 19 giờ đến 21 giờ 50 phút ngày 02/4/2020, tại phòng trọ do bị cáo Hồ Thị Xuân H2 thuê tại ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai các bị cáo D, Tú E, Tự E, D, H1 đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh bài “binh Ấn Độ” để được thua bằng tiền, với tổng số tiền đánh bạc là 12.760.000 đồng (mười hai triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng). Bị cáo H2 đã có hành vi cho các bị cáo khác đánh bạc tại phòng trọ do bị cáo thuê, cung cấp bộ bài tây, thu tiền xâu nên là đồng phạm giúp sức. Như vậy, các bị cáo Trần Thanh D, Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1, Hồ Thị Xuân H2 đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực để nhận thức được hành vi đánh bạc dưới mọi hình thức được thua bằng tiền hay hiện vật là vi phạm pháp luật nhưng vì ham lợi, cùng với ý thức coi thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt đủ nghiêm đối với các bị cáo.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn. Bị cáo Trần Thanh D là người khởi xướng và làm cái, các bị cáo Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1 tham gia đánh bạc cùng bị cáo D và có vai trò ngang nhau nên cần có mức hình phạt phù hợp. Đối với bị cáo Hồ Thị Xuân H2 không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng là đồng phạm giúp sức khi cho mượn địa điểm, cung cấp bài tây và thu tiền xâu nên có mức hình phạt nhẹ hơn các bị cáo khác trong vụ án.

[4] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với số tiền 12.760.000 đồng (mười hai triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng) các bị cáo dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[5.2] Đối với 02 (hai) bộ bài tây không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5.3] Đối với số tiền 8.000.000 (tám triệu đồng) thu giữ của bị cáo D, bị cáo D không sử dụng vào việc đánh bạc; 04 (bốn) điện thoại di động thu giữ của các bị cáo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho các bị cáo là phù hợp.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí đều phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố các bị cáo Trần Thanh D, Lê Văn Tú E, Nguyễn Văn Tự E, Phan Văn D, Huỳnh Thanh H1, Hồ Thị Xuân H2 phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh D số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Lê Văn Tú E số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tự E số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Phan Văn D số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh H1 số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Hồ Thị Xuân H2 số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.760.000 đồng (mười hai triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bộ bài tây đã qua sử dụng.

(Số tiền và vật chứng trên theo biên lai thu tiền số 012692 ngày 22/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom; biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo mỗi người phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

442
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2020/HSST ngày 11/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:191/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về