Bản án 191/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 191/2019/HS-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 197/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2019/QĐXXST-HS ngày 05/8/2019 đối với bị cáo:

PHM HOÀI N – sinh năm: 1980 tại Hà Nội; HKTT và chỗ ở: 107/73 NLB – NĐ – ĐĐ – Hà Nội; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Tự do; con ông Phạm Đức T và bà Nguyễn Thị Minh T; Vợ: Nguyễn Thu Tr ; Có 02 con: Lớn SN 2006, nhỏ SN 2007; TATS: Theo danh chỉ bản số 383 ngày 22/5/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 04 tiền sự, 01 tiền án:

Tiền sự:

- Năm 1999, Công an quận HK xử lý hành chính về hành vi Môi giới mại dâm.

- Năm 2002, đi cai nghiện bắt buộc 12 tháng tại Trung tâm cai nghiện số 06.

- Năm 2005, Công an quận HBT xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý.

- Năm 2007, Công an phường NĐ – ĐĐ xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc.

Tiền án: Án số 198/2008/HSST, TAND quận HBT xử 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2008 về hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý, án phí HSST 50.000 đồng. Bị can được giảm 1 năm 3 tháng thời hạn chấp hành án phạt tù, ra trại ngày 04/7/2014. Ngày 18/6/2008, Nam đã nộp án phí HSST 50.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận HBT – Hà Nội.

Bị cáo bị bắt ngày 17/5/2019. (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Anh D – Sinh năm 1979.

Nơi cư trú: Tổ 9, LH, quận ĐĐ, TP Hà Nội (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 0h05’ ngày 17/5/2019, tại khu vực ngõ 243 đường NT - Phường NT - Long Biên – Hà Nội, tổ công tác công an phường GB đang làm nhiệm vụ thì phát hiện 02 nam thanh niên đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Suzuki RGV BKS: 29F9 - 8596 có biểu hiện nghi vấn nên tổ công tác đã tiến hành dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện trong đế hộp khoá hình chữ U treo ở giá để hàng của chiếc xe trên có 01 túi ni lông bên trong chưa tinh thể màu trắng. Nam thanh niên điều khiển xe máy khai tên là Phạm Hoài N, SN: 1980, HKTT: 107/73 NLB – NĐ – ĐĐ – Hà Nội còn tinh thể màu trắng bên trong túi ni lông là ma tuý đá N mua về để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời nếu có khách hỏi mua. Nam thanh niên ngồi sau khai tên là Nguyễn Mạnh C, SN: 1981, HKTT: Số 55B tổ 13E – Ngõ 151 KN – TL – HBT – Hà Nội, C không biết việc Nam có và mang theo ma tuý. Tổ công tác đã tạm giữ của Nam: 01 túi ni lông màu trắng bên trong chưa tinh thể màu trắng; 01 khoá chữ U có chữ ALARM Lock màu đen có đế là inox hình hộp rỗng đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu Suzuki màu tím BKS: 29F9 – 8596 đã qua sử dụng; 01 đăng ký xe máy mang tên Đỗ Văn T; 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ trắng số IMEI: 355846089472161 lắp sim: 0363063760 đã qua sử dụng; 01 điện thoại Samsung J7 màu đen số IMEI: 356202095317429 lắp sim: 0946388555 đã qua sử dụng.

Ti kết luận giám định số 3129 ngày 23/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 3,984 gam.

Ti cơ quan điều tra, Phạm Hoài N khai nhận: Khoảng 22h00’ ngày 16/5/2019, N điều khiển xe máy nhãn hiệu Suzuki RGV có BKS: 29F9 – 8596 từ nhà đến khu vực cửa khẩu chợ LB – BĐ – Hà Nội với mục đích mua ma tuý về để sử dụng và bán kiếm lời. Khi đến khu vực này N gặp và mua của một người phụ nữ không quen biết 01 gói ni lông ma tuý đá với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, N để gói ni lông ma tuý đã mua được vào trong đế hộp khoá chữ U và treo ở giá để hàng của xe máy. Sau đó N điều khiển xe máy ra tới khu vực cổng chợ Long Biên thì gặp anh Nguyễn Mạnh C. Nam rủ anh C sang nhà bạn của Nam ở phường NT - Long Biên – Hà Nội, anh C đồng ý. Nam điều khiển xe máy chở anh C đến khu vực ngõ 243 đường NT - Phường NT - Long Biên – Hà Nội thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang, đưa N cùng tang vật về trụ sở công an phường NT.

Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên đã tiến hành khám xét nơi ở của Nam tại 107/73 NLB – NĐ – ĐĐ – Hà Nội nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Đi với Nguyễn Mạnh C, C khai không biết việc Nam mua và mang theo ma tuý, lời khai của C phù hợp với lời khai của Nam và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy không có căn cứ truy cứu trách nhiệm đối với C.

Đi với người phụ nữ bán ma tuý cho Phạm Hoài N tại khu vực cửa khẩu chợ Long Biên – Hà Nội, Nam khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ này nên không có căn cứ làm rõ.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Suzuki BKS: 29F9 – 8596, số khung: 132660, số máy: 132660, qua xác minh chiếc xe trên đăng ký dưới tên anh Đỗ Cao T, SN: 1966, HKTT: 66 QS - THĐ – HK – Hà Nội. Cuối năm 2008, do không sử dụng nên anh T bán lại cho một cửa hàng xe máy với giá 8.000.000 đồng. Khoảng 2010, anh Nguyễn Anh D mua lại chiếc xe máy trên với giá 10.000.000 đồng, và sử dụng đến tháng 8/2018 thì anh D cho N mượn chiếc xe máy trên để đi làm xe ôm. Anh D không biết Nam sử dụng chiếc xe trên làm việc gì. Việc cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe máy cho anh Nguyễn Anh D là có căn cứ.

Bản cáo trạng số: 202/CT-VKS ngày 23-7-2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Phạm Hoài N về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015.

Ti phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đi diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Phạm Hoài N đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào khoản 1 Điều 251 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều38; Điều 47 của BLHS 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Nam mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 3,984 gam ma túy Methamphetamine.

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 1 khoá chữ U có chữ ALARM Lock màu đen có đế là inox hình hộp rỗng đã qua sử dụng.

- Đề nghị cho thi hành trả lại bị cáo 1 điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ trắng số IMEI: 355846089472161 lắp sim: 0363063760 đã qua sử dụng và 01 điện thoại Samsung J7 màu đen số IMEI: 356202095317429 lắp sim: 0946388555.

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 00h05’ ngày 17/05/2019, tại khu vực ngõ 243 đường NT - Phường NT - Long Biên – Hà Nội, bị cáo Phạm Hoài N có hành vi tàng trữ trái phép 3,984 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời nếu có người hỏi mua, nhưng chưa kịp thực hiện mục đích thì bị tổ công tác công an phường GB – Long Biên – Hà Nội phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo Phạm Hoài N đã cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

- Nhân thân của bị cáo có 04 tiền sự: Năm 1999, Công an quận Hoàn Kiếm xử lý hành chính về hành vi Môi giới mại dâm, năm 2002, đi cai nghiện bắt buộc 24 tháng tại Trung tâm cai nghiện số 06, năm 2005, Công an quận HBT xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma tuý, năm 2007, Công an phường NĐ – ĐĐ xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc. Theo luật định các tiền sự trên của bị cáo đã hết thời hiệu. 01 Tiền án: Án số 198/2008/HSST, TAND quận HBT xử 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2008 về hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý, án phí HSST 50.000 đồng. Theo luật định tiền án này của bị cáo đã được xóa. Vì vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân bị cáo xấu thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu, tiêu hủy 3,984 gam ma túy Methamphetamine là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Tịch thu, tiêu hủy 1 khoá chữ U có chữ ALARM Lock màu đen có đế là inox hình hộp rỗng đã qua sử dụng là tang vật của vụ án.

- Cho thi hành trả lại bị cáo 1 điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ trắng số IMEI: 355846089472161 lắp sim: 0363063760 đã qua sử dụng và 01 điện thoại Samsung J7 màu đen số IMEI: 356202095317429 lắp sim: 0946388555 do không liên quan đến tội phạm.

Đi diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

[8] Đối với Nguyễn Mạnh C, C khai không biết việc Nam mua và mang theo ma tuý, lời khai của C phù hợp với lời khai của Nam và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy không có căn cứ truy cứu trách nhiệm đối với C là có căn cứ.

Đi với người phụ nữ bán ma tuý cho Phạm Hoài N tại khu vực cửa khẩu chợ Long Biên – Hà Nội, Nam khai không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ này nên không có căn cứ làm rõ.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Suzuki BKS: 29F9 – 8596, số khung: 132660, số máy: 132660. Cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả chiếc xe máy cho anh Nguyễn Anh D là có căn cứ. Anh D đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Hoài N phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt: bị cáo Phạm Hoài N 05 (Năm) năm 06 (Sáu ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 3,984 gam ma túy Methamphetamine.

(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 08/7/2019).

- Tịch thu, tiêu hủy 1 khoá chữ U có chữ ALARM Lock màu đen có đế là inox hình hộp rỗng đã qua sử dụng.

- Trả lại bị cáo 1 điện thoại Iphone 7 Plus màu đỏ trắng bên trong có 01 sim đã qua sử dụng và 01 điện thoại Samsung J7 màu đen bên trong có 01 sim đã qua sử dụng.

(Hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/7/2019)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 191/2019/HS-ST ngày 20/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:191/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về