Bản án 1909/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1909/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 539/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5940/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Phương A, sinh năm 1984 Địa chỉ: đường S, phường B, Quận T, Thành phố H.

Đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm 1970 và bà Hoàng Phương T, sinh năm 1996; Cùng địa chỉ: Đường N, phường Đ, Quận K, Thành phố H.

Bị đơn: Ông Nguyễn Huỳnh Bảo T, sinh năm 1969 Địa chỉ: 4108 Brookview Drive Charlotte, NC 28205 Hoa Kỳ.

Đại diện ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị Phương A, sinh năm 1984.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/9/2019, và bản tự khai, nguyên đơn bà Lê Thị Phương A trình bày:

Bà và ông Nguyễn Huỳnh Bảo T tự nguyện kết hôn vào năm 2003 theo giấy chứng nhận kết hôn số 235 ngày 14/10/2003 do Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cấp.

Sau khi kết hôn bà và ông T chung sống với nhau tại Việt Nam được 10 năm tại địa chỉ 50B đường số 47, phường Bình Thuận, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình chung sống hai bên không phát sinh mâu thuẫn. Đến tháng 10/2013 ông T quay trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc. Đồng thời, làm thủ tục bảo lãnh cho bà và con chung tên Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 sang Hoa Kỳ sinh sống. Khoảng tháng 4/2014 ông T về Việt Nam bảo lãnh con Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 sang Hoa Kỳ sinh sống cùng ông còn bà vẫn ở lại Việt Nam. Từ cuối năm 2013 bà và ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do không thống nhất được với nhau về những vấn đề trong cuộc sống gia đình. Đến tháng 9/2015 bà sang Hoa Kỳ sinh sống cùng ông T nhưng giữa hai vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn không giải quyết được do đó đến tháng 10/2015 bà trở về Việt Nam sinh sống và làm việc cho đến nay. Hai bên vẫn liên lạc với nhau qua điện thoại. Bà và ông T đã sống ly thân từ năm 2015, hai bên không còn quan tâm, chăm sóc và cùng nhau vun vén hạnh phúc gia đình. Do không chung sống với nhau trong một thời gian dài nên dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt. Nay bà nhận thấy không còn tình cảm với ông T, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Huỳnh Bảo T để có điều kiện ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà Lê Thị Phương A khai bà và ông Nguyễn Huỳnh Bảo T có một con chung tên Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 hiện đang sống cùng ông Nguyễn Huỳnh Bảo T tại Hoa Kỳ, sau khi ly hôn bà đồng ý giao con chung cho ông Nguyễn Huỳnh Bảo T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con trưởng thành, bà không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung : Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T đề ngày 19/10/2019 được Tổng lãnh sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ chứng thực chữ ký ngày 28/10/2019 có nội dung như sau: Ông và bà Lê Thị Phương A tự nguyện kết hôn vào năm 2003 theo giấy chứng nhận kết hôn số 235 ngày 14/10/2003 do Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cấp.

Sau khi kết hôn về quá trình sống chung và mâu thuẫn như bà Phương A đã trình bày. Ông và bà Phương A đã sống ly thân từ năm 2015, hai bên vẫn còn liên lạc qua điện thoại. Ông không muốn quay về Việt Nam còn bà Phương A không muốn qua Mỹ sinh sống. Nay ông nhận thấy hiện nay tình cảm vợ chồng không hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt đđược. Ông được biết bà Lê Thị Phương A yêu cầu ly hôn với ông Về quan hệ hôn nhân: Ông đồng ý ly hôn với bà Lê Thị Phương A.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 hiện đang sống cùng ông tại Hoa Kỳ, sau khi ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành. Ông không yêu cầu bà Phương A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung : Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa sơ thẩm : Nguyên đơn bà Lê Thị Phương A, bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết :

Nguyên đơn bà Lê Thị Phương A đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T đang cư trú tại Hoa Kỳ, giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37 ; điểm a khoản 2 Điều 38 ; Điều 464 ; Điều 465 ; điểm g khoản 1 Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122 ; Điều 123 ; Điều 124 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm :

Nguyên đơn bà Lê Thị Phương A, bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T đều có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ nên vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung :

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn bà Lê Thị Phương A, bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T tự nguyện kết hôn vào năm năm 2003 theo giấy chứng nhận kết hôn số 235 ngày 14/10/2003 do Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cấp. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của đôi bên thì sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Việt Nam được 10 năm. Đến năm 2013 ông Nguyễn Huỳnh Bảo T sang Hoa Kỳ sinh sống và làm việc. Đồng thời, làm thủ tục bảo lãnh cho con chung Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 sang Hoa Kỳ sinh sống cùng ông. Do thiếu sự quan tâm lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng và tin tưởng, quan điểm và suy nghĩ khác biệt nên tình cảm vợ chồng dần lạnh nhạt, không thể hàn gắn tình cảm. Bà Lê Thị Phương A xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân và có yêu cầu được ly hôn. Ý kiến của ông Nguyễn Huỳnh Bảo T cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Lê Thị Phương A.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng để tiếp tục cuộc hôn nhân hạnh phúc. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Việc bà Lê Thị Phương A yêu cầu ly hôn là có căn cứ và phù hợp với pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung : Bà Lê Thị Phương A và ông Nguyễn Huỳnh Bảo T cùng xác nhận có 01 con chung tên Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 hiện đang sống cùng ông T tại Hoa Kỳ. Bà Lê Thị Phương A đồng ý giao con chung Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 cho ông Nguyễn Huỳnh Bảo T tiếp tục nuôi dưỡng, ý kiến của trẻ Nguyễn Lê Bảo N cũng mong muốn được tiếp tục sống cùng ông T, ông T không yêu cầu bà Phương A cấp dưỡng nuôi con chung, xét sự thỏa thuận của đương sự là không trái với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[3] Về tài sản chung và nợ chung : Bà Lê Thị Phương A và ông Nguyễn Huỳnh Bảo T đều khai không yêu cầu Tòa án xem xét nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ khoản 1 Điều 51 ; Điều 53 ;khoản 1 Điều 56 ; Điều 57 ; Điều 81, Điều 82, Điều 83; Điều 84; Điều 122; Điều 123; Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016.UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008 ; Tuyên xử :

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Thị Phương A.

1/ Quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Phương A được ly hôn với ông Nguyễn Huỳnh Bảo T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 235 ngày 14/10/2003 do Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cấp không còn giá trị pháp lý kể tự ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2/ Về con chung :

Giao con chung Nguyễn Lê Bảo N, sinh ngày 14/5/2004 cho ông Nguyễn Huỳnh Bảo T nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi trưởng thành. Ông Nguyễn Huỳnh Bảo T không yêu cầu bà Lê Thị Phương A cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với bà Lê Thị Phương A.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ này, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về tài sản chung và nợ chung : Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Phương A phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền bà Phương A đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số AA/2019/0024560 ngày 24/9/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lê Thị Phương A đã nộp đủ án phí.

4/ Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Lê Thị Phương A và bị đơn ông Nguyễn Huỳnh Bảo T; bà Lê Thị Phương A được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ. Ông Nguyễn Huỳnh Bảo T được quyền kháng cáo trong hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1909/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về ly hôn

Số hiệu:1909/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về