Bản án 1907/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về tranh chấp xác định cha cho con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1907/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2019 VỀ TRANH CHẤP XÁC ĐỊNH CHA CHO CON

Ngày 18/12/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 560/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 10 năm 2019 về vụ việc tranh chấp xác định cha cho con.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5846/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Dương Tuấn A, sinh năm: 1991 Địa chỉ: 219/9 Đường L, Phường K, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu C, sinh năm: 1988 Hộ khẩu thường trú: 34 Đường H, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Q.

Tạm trú: 219/9 Đường L, Phường K, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Chatchai C1, sinh năm: 1974 Địa chỉ: 692/41 X Bangkok, Thailand.

(Các đương sự có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trình bày của ông Dương Tuấn A:

Ông và bà Nguyễn Thị Thu C, sinh năm 1988 có quan hệ và sinh sống với nhau trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2018. Trong thời gian quan hệ thì bà Nguyễn Thị Thu C có mang thai với ông và đến ngày 22/6/2019 có sinh một bé trai theo giấy chứng sinh số 75, quyển số 13/2019 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế.

Trong thời gian bà C quan hệ với ông thì bà C có chồng là ông Chatchai C1, sinh năm 1974 nhưng đã ly thân và đã ly hôn tại tòa án Thái Lan ngày 30/7/2019.

Theo phiếu kết quả phân tích AND ngày 31/8/2019 của Công ty cổ phần dịch vụ phân tích di truyền – chi nhánh phía nam thì ông Dương Tuấn A và trẻ Dương Chí A1, sinh ngày 22/6/2019 (chưa có giấy khai sinh) có quan hệ huyết thống cha – con.

Ông yêu cầu Tòa án xác định ông Dương Tuấn A, sinh năm 1991 là cha ruột của trẻ Dương Chí A1, sinh ngày 22/6/2019 để làm khai sinh cho con. Ngoài ra, ông không còn yêu cầu nào khác.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thu C trình bày:

Bà và ông Dương Tuấn A, sinh năm 1991 có quan hệ và sinh sống với nhau trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2018. Trong thời gian quan hệ thì bà có mang thai và sinh một bé trai vào ngày 22/6/2019 theo giấy chứng sinh số 75, quyển số 13/2019 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế.

Trong thời gian mang thai và sinh bé trai thì bà vẫn còn quan hệ vợ chồng với ông Chatchai C1, sinh năm 1974. Bà đã ly hôn với ông Chatchai C1 theo giấy ly hôn số 429/13948 do quận M, tỉnh B cấp ngày 30/7/2019 và Trích lục ghi chú ly hôn số 02/TLGCLH ngày 20/8/2019 tại Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Q.

Bà xác nhận bé trai do bà sinh ra theo giấy chứng sinh số 75, quyển số 13/2019 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế là con của ông Dương Tuấn A, sinh năm 1991. Hiện nay, hai mẹ con bà đang sinh sống tại nhà ông Dương Tuấn A tại địa chỉ 219/9 Đường L, Phường K, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bà cũng đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Dương Tuấn A về việc xác nhận cha cho con để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con bà và làm giấy khai sinh cho con bà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Chatchai C1 trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Thu C, sinh năm 1988 có kết hôn theo Giấy đăng ký kết hôn số 139/16273 cấp ngày 05/6/2013 tại quận I. Ông và bà C đã ly hôn theo giấy ly hôn số 429/13948 do quận M, tỉnh B cấp ngày 30/7/2019.

Trong thời gian bà C đang còn quan hệ hôn nhân với ông, lúc này giữa ông và bà C đã ly thân và chuẩn bị ly hôn thì bà C có quan hệ và chung sống với ông Dương Tuấn A.

  2 Ông xác nhận đứa trẻ bà Nguyễn Thị Thu C sinh ngày 22/6/2019 là con trai huyết thống của ông Dương Tuấn A và bà Nguyễn Thị Thu C, và ông cũng đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông Dương Tuấn A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ông Dương Tuấn A đang cư trú tại Việt Nam có yêu cầu khởi kiện xác định cha cho con đối với bà Nguyễn Thị Thu C. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Chatchai C1 hiện đang cư trú tại Thái Lan. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Dương Tuấn A, bà Nguyễn Thị Thu C và ông Chatchai C1 tham gia phiên tòa vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 18/12/2019 nhưng các đương sự có đơn xin vắng mặt ngày 26/11/2019.

[2] Xét yêu cầu của ông Dương Tuấn A có đủ căn cứ để xác định:

Ông Dương Tuấn A và bà Nguyễn Thị Thu C có quen biết nhau và quan hệ tình cảm từ năm 2017 đến năm 2018 và bà C có thai trong thời gian qua lại với ông. Ngày 22/6/2019, bà C đã sinh một bé trai.

Cũng trong thời gian này thì bà Nguyễn Thị Thu C vẫn đang còn quan hệ hôn nhân với ông Chatchai C1 theo Giấy đăng ký kết hôn số 139/16273 cấp ngày 05/6/2013 tại quận I. Đến ngày 30/7/2019 thì bà C với ông Chatchai C1 ly hôn theo giấy ly hôn số 429/13948 do quận M, tỉnh B và Trích lục ghi chú ly hôn số 02/TLGCLH ngày 20/8/2019 tại Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Q.

Bà Nguyễn Thị Thu C cũng thừa nhận có quan hệ tình cảm với ông Dương Tuấn A trong thời gian ly thân và chuẩn bị ly hôn với ông Chatchai C1. Và bà cũng đồng ý với yêu cầu xác định cha cho con đối với bé trai sinh ngày 22/6/2019 là con của ông Dương Tuấn A để nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ và làm giấy khai sinh.

Ông Chatchai C1 cũng đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Dương Tuấn A là xác định ông Dương Tuấn A là cha đẻ của bé trai sinh ngày 22/6/2019 với mẹ là bà Nguyễn Thị Thu C, còn ông không phải là cha ruột của trẻ sinh ngày 22/6/2019.

Theo phiếu kết quả phân tích AND ngày 31/8/2019 của Công ty cổ phần dịch vụ phân tích di truyền – chi nhánh phía nam thì ông Dương Tuấn A và trẻ Dương Chí A1, sinh ngày 22/6/2019 (chưa có giấy khai sinh) có quan hệ huyết thống cha – con với xác suất 99,99%. Như vậy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Tuấn A xác định ông là cha ruột của bé trai sinh ngày 22/6/2019 có mẹ là bà Nguyễn Thị Thu C.

 3 [3] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Dương Tuấn A thuộc trường hợp được miễn theo quy định tại Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và điểm b Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Khoản 1 Điều 37, Khoản 1 Điều 38, Điều 146, Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Áp dụng Điều 89, Điều 91, Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Dương Tuấn A.

Xác định ông Dương Tuấn A, sinh năm 1991 là cha ruột của bé trai sinh ngày 22/6/2019 theo giấy chứng sinh số 75, quyển số 13/2019 tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế.

Ông Dương Tuấn A và bà Nguyễn Thị Thu C được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký khai sinh cho trẻ sinh ngày 22/6/2019; Giới tính: Nam; Có cha là Dương Tuấn A, sinh năm 1991; Quốc tịch: Việt Nam; Nơi cư trú 219/9 Đường L, Phường K, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh và mẹ là bà Nguyễn Thị Thu C.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Dương Tuấn A.

3. Án xử công khai sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày ông Dương Tuấn A, bà Nguyễn Thị Thu C nhận tống đạt hợp lệ bản án. Đối với ông Chatchai C1 thời hạn kháng cáo bản án là 01 tháng kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1907/2019/HNGĐ-ST ngày 18/12/2019 về tranh chấp xác định cha cho con

Số hiệu:1907/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về