Bản án 190/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 190/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 317/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 108/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1981; nơi cư trú: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 28/7/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Phạm Văn T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 57 ngày 17 tháng 10 năm 2001 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng anh hiện đã sống ly thân nhau. Anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Phạm Thị H.

Về con chung: Anh T khai anh và chị Phạm Thị H có hai con là Phạm Văn T, sinh ngày 16 tháng 08 năm 2001 và Phạm Thị H, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2005. Trường hợp ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con là Phạm Thị H. Con chung là Phạm Văn T hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T khai anh và chị Phạm Thị H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh T khai anh và chị Phạm Thị H có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia nếu không xong anh sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau.

Bị đơn là chị Phạm Thị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, chị H vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc anh T xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị H. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh T và chị H được ly hôn.

Về con chung: Anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H có hai con là Phạm Văn T, sinh ngày 16 tháng 08 năm 2001 và Phạm Thị H, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2005. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Thị H cho đến khi con Phạm Thị H đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Con chung là Phạm Văn T hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Anh Phạm Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Phạm Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H được xác lập vào năm 2001 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên anh T và chị H hiện đã sống ly thân nhau. Anh T xin ly hôn chị H, Tòa án đã triệu tập chị H nhiều lần để trình bày ý kiến về việc anh T xin ly hôn nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho anh T và chị H được ly hôn.

[3] Về con chung: Anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H có hai con là Phạm Văn T, sinh ngày 16 tháng 08 năm 2001 và Phạm Thị H, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2005. Trường hợp ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con là Phạm Thị H. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy từ khi sống ly thân đến nay, anh T là người trực tiếp nuôi con Phạm Thị H và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Phạm Thị H có nguyện vọng được bố nuôi dưỡng. Vì vậy giao cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Thị H cho đến khi con Phạm Thị H đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Con chung là Phạm Văn T hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Phạm Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh Phạm Văn T khai anh và chị Phạm Thị H có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận phân chia nếu không xong anh sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì anh Phạm Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Phạm Văn T và chị Phạm Thị H.

2. Về con chung: Giao cho anh Phạm Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Thị H, sinh ngày 27 tháng 8 năm 2005 cho đến khi con Phạm Thị H đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Phạm Văn T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng anh T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0016032 ngày 30 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, anh Phạm Văn T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Phạm Văn T, chị Phạm Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:190/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về