Bản án 190/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 190/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 192/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Khánh N, sinh năm 1995; nơi sinh: Vĩnh Long; thường trú: Ấp Hòa Thạnh 3, xã Thạnh Quới, huyện L, tỉnh V; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu Nghĩa và bà Hồ Thị Loan; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt ngày 14/3/2019, sau đó tạm giữ, tạm giam cho đến nay. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Ngọc Thúy T, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp Hòa Thạnh 3, xã Thạnh Quới, huyện L, tỉnh V. Có mặt

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Ngọc Huệ, ông Phạm Hoài Hận, ông Ngô Tuấn Kiệt, Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Khánh N và Lê Đoàn Hữu Huy (tên thường gọi là Vĩ; sinh năm 1993, HKTT: Ấp Hòa Thạnh 3, xã Thạnh Quới, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) có mối quan hệ là bạn và thường xuyên sử dụng ma túy chung với nhau. N nuôi gà thuê cho Huy tại nhà do Huy thuê thuộc đường số 22, khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 11 giờ ngày 09/3/2019, Huy gọi điện thoại bảo N đi đến ngã tư Miếu Ông Cù thuộc phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương để mua ma túy giùm cho cho Huy, N đồng ý (Huy về quê từ ngày 07/3/2019); Huy bảo N là khi đi đến ngã tư Miếu Ông Cù thì có người đàn ông đi xe mô tô Nn hiệu Wave màu đỏ, sẽ đưa ma túy cho N, rồi N đưa cho người đàn ông này số tiền 5.300.000đồng. Sau đó, N điều khiển xe mô tô biển số 64B1 - 484.08 và cầm theo số tiền 5.300.000 đồng đi đến khu vực thuộc ngã tư Miếu Ông Cù. Khi đến nơi, N dừng xe bên lề đường, khoảng 15 phút thì có một người đàn ông điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu đỏ (không rõ biển số) đi đến và hỏi “Mày phải em của anh Vĩ không”, thì N nói là phải. Tại đây, N đưa cho người đàn ông này số tiền là 5.300.000 đồng, người đàn ông đưa cho N một gói thuốc lá hiệu JET, N mở gói thuốc ra xem thì thấy bên trong có một bịch ma túy miệng kéo dính, sau đó N điều khiển xe đi về nhà của Huy. Khi về đến nơi, N mở gói thuốc lá hiệu JET ra và lấy bịch ma túy mới mua được cất giấu ở khu bếp gas ở nhà Huy. Đến khoảng 10 giờ ngày 13/3/2019, Huy gọi điện thoại bảo N tách bịch ma túy ra thêm hai bịch ma túy nhỏ và cất giấu giùm Huy, sau khi tách xong N cất giấu hai bịch ma túy mới tách lên trên thanh xà gồ bằng sắt chỗ gác lửng, còn bịch ma túy miệng kéo dính N bỏ vào chiếc hộp màu đen cất giấu trên la phông trần nhà của Huy. Đến 00 giờ 20 phút ngày 14/3/2019, N lấy một ít ma túy trong bịch ma túy trên thanh xà gồ bằng sắt chỗ gác lửng rồi bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế (có sẵn trong phòng trọ) và cùng Nguyễn Thị Ngọc Huệ sử dụng, sau khi N và Huệ sử dụng ma túy xong, lúc này lực lượng Công an phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà do Huy thuê phát hiện: 02 bịch ny lon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng đang cất giấu trên cây xà gồ sắt nằm dưới gác lửng và một bịch ny lon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng để trong hộp giấy cất giấu trên la phông trần nhà. N khai nhận: Toàn bộ chất tinh thể màu trắng trong ba bịch ny lon là ma túy đá do N mua và cất giấu dùm cho Huy. Công an phường Tân Hiệp tiến hành lập biên bản niêm phong số ma túy nêu trên và đưa N và Huệ cùng vật chứng về trụ sở công an phường Tân Hiệp tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ đồ vật, tài sản có liên quan gồm: 02 bịch ny lon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, một bịch ny lon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá).

Ngoài ra công an phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên còn tiến hành tạm giữ:

- 01 xe mô tô biển số 64B1 - 484.08.

- 01 cân tiểu ly hiệu Amput.

- Một hộp giấy màu đen có chữ Herby.

- Một điện thoại di động không có vỏ ngoài, mặt sau có chữ NOKIA,

Công an phường Tân Hiệp lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao N cùng hồ sơ vụ việc, vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận giám định số 241/MT-PC09 ngày 18/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu chất màu trắng gửi giám định thu giữ của Lê Khánh N là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 6,5253 gam (M1); 1,7299 gam (M2); 0,4958 gam (M3).

Xe mô tô biển số 64B1 - 484.08 do bà Lê Ngọc Thúy T (là chị một của N) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Do không có xe để đi nên N mượn xe mô tô biển số 64B1 - 484.08 của bà T để làm phương tiện đi lại. Việc N sử dụng xe trên thực hiện hành vi phạm tội thì bà T không biết. Ngày 03/10/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 221 và trả lại xe mô tô biển số 64B1 - 484.08 cho bà T.

Đối với đối tượng Lê Đoàn Hữu Huy (tên gọi khác là Vĩ) đã bỏ trốn khỏi địa phương nơi cư trú và người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch theo như lời khai của N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị Ngọc Huệ, qua điều tra xác định Huệ không biết việc N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không đủ căn cứ xử lý đối với Huệ.

Cáo trạng số 196/CT-VKS.TU ngày 21/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố bị cáo Lê Khánh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Khánh N mức hình phạt từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với lượng ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định, có tổng khối lượng là 7,6683gam, là vật chứng của vụ án, thuộc diện Nhà nước cấm lưu hành cùng với 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá), 01 cân tiểu ly có chữ Amput, 01 hộp giấy màu đen có chữ Herby, 01 điện thoại di động không có vỏ ngoài thu giữ của bị cáo, không có giá trị sử dụng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đứng như cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại gì đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó đủ cơ sở xác định: Ngày 14/3/2019, tại phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Lê Khánh N có hành vi tàng trữ trái phép 8,7510 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị phát hiện bắt quả tang, việc cất giữ ma tuý của bị cáo không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện. Hiện nay, tình hình tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn biến phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm hình sự khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có người thân là người có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với lượng ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định, có tổng khối lượng là 7,6683gam, là vật chứng của vụ án, thuộc diện Nhà nước cấm lưu hành cùng với 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá), 01 cân tiểu ly có chữ Amput, 01 hộp giấy màu đen có chữ Herby, 01 điện thoại di động không có vỏ ngoài, mặt sau có chữ NOKIA có imei 358957/01/322744/1 không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Khánh N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

1. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Khánh N 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 46, 47 Bộ luật hình sự.

- Tịch tiêu huỷ 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 241/PC09, ngoài bì thư có chữ ký người bị bắt Lê Khánh N; người chứng kiến Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Ngô Tuấn Kiệt; cán bộ niêm phong Dương Hữu Hiệp, Ngô Thanh Trà, hình dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có chứa chất Methamphetamine là đối tượng hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 241/MT-PC09 ngày 18/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy), 01 cân tiểu ly có chữ Amput, 01 hộp giấy màu đen có chữ Herby, 01 điện thoại di động không có vỏ ngoài (mặt sau có chữ NOKIA có imei 358957/01/322744/1) không sử dụng được.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Lê Khánh N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:190/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về