Bản án 190/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 190/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 114/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 63/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Văn Thị Xuân Q, sinh năm 1999. Vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn A, xã Quế P, huyện Quế S, tỉnh Q.

- Bị đơn: Anh Trần Trung H, sinh năm 1997. Vắng mặt.

Đa chỉ: Thôn N, xã Quế H, huyện Quế S, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 21/6/2019, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Văn Thị Xuân Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh H tự nguyện kết hôn vào ngày 28/4/2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quế P, huyện Quế S, tỉnh Q. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc do anh H thường xuyên đánh đập chị Q. Vợ chồng chị đã sống ly thân gần hai năm nay và không còn quan tâm đến nhau. Nay chị Q thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh Trần Trung H.

Về con chung: Có một con chung tên là Trần Hữu B, sinh ngày 17/01/2017. Hiện nay, cháu B đang do chị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Q có nguyện vọng tiếp tục được nuôi dưỡng cháu B. Chị Q không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Đi với bị đơn anh Trần Trung H, trong quá trình giải quyết vụ án anh H không hợp tác, cố tình không đến Tòa án làm việc, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, anh H không có ý kiến về nội dung vụ án và vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không có mặt tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa là vi phạm quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con của chị Văn Thị Xuân Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn - chị Văn Thị Xuân Q có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn - anh Trần Trung H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Văn Thị Xuân Q có quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh Trần Trung H, địa chỉ: Thôn N, xã Quế H, huyện Quế S, tỉnh Q. Nay, chị Q khởi kiện xin ly hôn với anh H và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh H tự nguyện kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã Quế P, huyện Quế S, tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 17 ngày 28 tháng 4 năm 2017. Quá trình giải quyết vụ án, chị Q cho rằng vợ chồng chung sống không hạnh phúc do anh H thường xuyên đánh đập chị. Anh H và chị Q đã sống ly thân gần hai năm nay và không còn quan tâm đến nhau. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh H đều vắng mặt, không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật nên không có ý kiến về nội dung vụ án, không tham gia các phiên hòa giải theo các Thông báo của Tòa án. Tại phiên tòa, anh H tiếp tục vắng mặt không có lý do trong khi chị Q có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn cương quyết xin ly hôn. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Q, anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Q là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị Q và anh H có 01 con chung tên là Trần Hữu B, sinh ngày 17/01/2017. Khi ly hôn, chị Q yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu B và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H không có ý kiến về việc ly hôn, xin nuôi con của chị Q và không hợp tác, thể hiện sự không quan tâm đến con cái. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu B cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, mà không ai được cản trở phù hợp với quy định tại Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Văn Thị Xuân Q phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Văn Thị Xuân Q về việc "Tranh chấp về ly hôn và nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Văn Thị Xuân Q và anh Trần Trung H.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Hữu B, sinh ngày 17/01/2017 cho chị Văn Thị Xuân Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Trần Trung H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Khi cần thiết, các bên đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Văn Thị Xuân Q phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị Q đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007038 ngày 08/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 190/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:190/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về