Bản án 189/2020/HSST ngày 28/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 189/2020/HSST NGÀY 28/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đưa ra xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 182/2020/TL - HSST ngày 07 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 335/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với:

Bị cáo Lê Văn L (tên gọi khác Lê Trung L), sinh năm 1948; Đăng ký hộ khẩu: Khu 5 P, xã Tứ D, huyện K, tỉnh H và cư trú: Cụm 10, thôn T, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Không. Văn hóa: 07/10. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Họ và tên bố: Lê Văn V (đã chết). Họ và tên mẹ: Trần Thị N, sinh năm 1921. Họ tên vợ: Trần Thị H, sinh năm 1954. Bị cáo có 06 con, lớn sinh năm 1976 và bé sinh năm 1990. Nhân thân: có 02 tiền án: Ngày 08/8/1997, Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 02 năm tù giam về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt là 05 năm tù giam. Ngoài ra, Lê Văn L phải nộp phạt 500.000 đồng và 50.000 đồng án phí HSST. Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Lê Văn L đã nộp 47.000 đồng biên lai số 87 ngày 11/9/1997 và nộp 503.000 đồng tại biên lai số 8105 ngày 09/8/2004. Ra trại ngày 27/3/2005; Ngày 26/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 8 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 31/5/2018. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/5/2020. Hiện đang được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 28 tháng 5 năm 2020, trước khu vực vỉa hè trường THCS Giảng Võ, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, tổ công tác công an phường Giảng Võ phát hiện Lê Văn L đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong túi áo ngực bên phải của L có 01 gói giấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, Lập khai nhận đó là ma túy vừa mua về để sử dụng. Tổ công tác đã đưa L cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở để làm rõ.

Tổ công tác đã thu giữ của Lê Văn L: 01 gói giấy màu trắng kích thước 1x2cm bên trong có chất bột màu trắng.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn L khai nhận: Khoảng 8 giờ ngày 28/5/2020, Lập đi xe khách từ Hưng Yên lên Hà Nội, sau đó đi xe buýt đến khu vực phố Giảng Võ để tìm việc làm. Bản thân nghiện ma túy nên L đã đi xung quanh khu vực phố Trần Huy Liệu – Giảng Võ để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến cầu thang giữa nhà tập thể C8 Giảng Võ, L đã gặp và mua 01 gói Heroine của một người đàn ông không quen biết với giá 200.000 đồng, Mua xong, L cất gói Heroine vào trong túi áo ngực bên phải để đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực vỉa hè THCS Giảng Võ thì L bị tổ công tác công an phường Giảng Võ kiểm tra, phát hiện và thu giữ gói Heroine trên.

Lời khai nhận của Lê Văn L phù hợp với lời khai người chứng kiến, vật chứng thu giữ, hiện trường, cùng toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Đối tượng bán ma túy cho Lê Văn L, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

Kết luận giám định số 4249/KLGĐ-PC09 ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,106 gam.

Cáo trạng số: 178/CT-VKS ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Kiểm sát viên - Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm vụ án và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận thành khẩn toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đề nghị về hình phạt: Áp dụng c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm o, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án từ 16 tháng đến 20 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đề nghị về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa 0,106 gam loại Heroine, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Văn L và giám định viên.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội, bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và không có tranh luận bào chữa gì về mức án. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Quá trình điều tra, truy tố liên quan đến đến việc giải quyết vụ án (Về hành vi, các quyết định tố tụng), Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tiến hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

[2] Nội dung: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ diễn biến vụ án đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 28/5/2020, trước khu vực vỉa hè trường THCS Giảng Võ, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, Lê Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,106 gam Heroine mục đích để sử dụng đã bị Tổ công tác Công an phường Giảng Võ kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Xét bị cáo nhân thân có 02 tiền án, trong đó có một tiền án xác định chưa được xóa tích. Lần phạm tội này của bị cáo phạm vào tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Do vậy cần thiết phải có hình phạt tương xứng áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa làm gương cho người khác biết tôn trọng pháp luật.

Khi xem xét, quyết định mức hình phạt đối với bị cáo: Hội đồng xét xử xét thái độ của bị cáo tại phiên tòa thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, bị cáo sinh năm 1948 đã trên 70 tuổi do đó cần thiết áp dụng điểm s, điểm o, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với đối tượng bán cho bị cáo ma túy, Cơ quan điều tra không làm rõ được lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

[3] Xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa 0,106 gam loại Heroine, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Văn L và giám định viên.

[4] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về Điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và về xử lý vật chứng phù hợp các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các căn cứ, nhận định của Hội đồng xét xử;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm o, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L (tên gọi khác Lê Trung L) 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28 tháng 5 năm 2020 đến ngày 02 tháng 6 năm 2020;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa 0,106 gam loại Heroine, bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Văn L và giám định viên theo biên bản bàn giao vật chứng số 13 ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

- Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ điểm đ khoản 1 “người cao tuổi”, Điều 12, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày 28 tháng 10 năm 2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2020/HSST ngày 28/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:189/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về