Bản án 189/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 189/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1272/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh T, cư trú tại: Xóm X, thôn T, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị L, cư trú tại: Xóm X, thôn T, xã P, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 12 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Minh T trình bày:

Anh và chị Trần Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 29-02-2012 tại Ủy ban nhân dân xã P, thành phố Q. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hạnh phúc. Đến khi sinh đứa con đầu lòng bị bệnh tim bẩm sinh, kể từ đó hoàn cảnh kinh tế khó khăn, eo hẹp, không chạy chữa được cho con, nên vợ chồng anh đã nảy sinh mâu thuẫn và đã chia tay mỗi người một cuộc sống riêng. Do đó, anh yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Vợ chồng anh có 01 con chung là Nguyễn Thị Cẩm L (sinh ngày 13-11-2011), hiện đang ở với cha. Khi ly hôn, anh xin được nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng anh không có nợ ai.

* Bị đơn chị Trần Thị L đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa và không cung cấp lời khai hay tài liệu, chứng cứ.

* Ý kiến của cháu Nguyễn Thị Cẩm L: Nếu cha mẹ ly hôn thì nguyện vọng của cháu là muốn ở với cha.

* Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng còn bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận cho ly hôn, giao con chung cho anh T nuôi, ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, buộc đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Nguyễn Minh T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung. Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Chị Trần Thị L đã được Tòa án thông báo, tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Anh Nguyễn Minh T và chị Trần Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, thành phố Q vào ngày 29-02-2012, không vi phạm điều kiện kết hôn, nên hôn nhân giữa anh T và chị L là hôn nhân hợp pháp.

[4] Anh T và chị L chung sống với nhau từ năm 2011 và có 01 người con chung là Nguyễn Thị Cẩm L (sinh ngày 13-11-2011). Vì nguyên nhân kinh tế gia đình khó khăn do phải chạy chữa bệnh cho con mà vợ chồng anh chị đã nảy sinh mâu thuẫn, đã sống ly thân, không còn tình cảm và trách nhiệm với nhau từ 03 năm nay như theo lời khai của anh T và cũng phù hợp với Biên bản xác minh tại địa phương ngày 09-01-2019. Xét tình trạng hôn nhân của anh T và chị L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo khoản 1Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa chấp nhận giải quyết cho anh T và chị L được ly hôn.

[5] Về con chung: Từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu L ở với cha, tình cảm cha con đã gắn bó, nguyện vọng của cháu L vẫn muốn tiếp tục ở với cha. Cho nên, theo Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa chấp nhận giao cháu L cho anh T nuôi và ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm, theo điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh T phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên về giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Minh T và chị Trần Thị L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Anh Nguyễn Minh T và chị Trần Thị L có 01 người con chung là Nguyễn Thị Cẩm L (sinh ngày 13-11-2011), hiện tại đang ở với cha.

2.2. Giao cháu L cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nếu lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Minh T phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0000753 ngày 17 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:189/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về