Bản án 189/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 189/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 12/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 204/2017/HSST ngày 07/8/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1992; nơi đăng ký HKTT: thôn Q, xã H,huyện Chương Mỹ, Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn:lớp 9/12; con ông Nguyễn Bá B (đã chết) và bà Phùng Thị M; tiền án, tiền sự:không; danh chỉ bản số 91 lập ngày 28/12/2016 tại Công an quận Nam TừLiêm; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2016; có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Anh Lương Minh Tr, sinh năm 1976; địa chỉ: số 5 đường X, phường V, quận Hà Đông, Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Ánh Ng, sinh năm 1987; địa chỉ: số 8 B L, phường P, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Thành Đ bị Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 03/5/2016, anh Lương Minh Tr đến cửa hàng tại số 5 phố N, Hà Đông, Hà Nội vay tín chấp số tiền 15.000.000 đồng của Nguyễn Thị Ánh Ng (sinh năm 1987, HKTT: số 814 Ba La, phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội). Thực tế, anh Tr nhận số tiền 12.000.000 đồng và phải trả đủ 15.000.000 đồng trong vòng 50 ngày, mỗi ngày phải trả 300.000 đồng. Khi vay tiền, anh Tr có sử dụng bản sao Chứng minh nhân dân của mình và bản sao hộ khẩu. Sau khi vay anh Tr có trả được 2.000.000 đồng và đi làm việc ở Thanh Hóa. Ng đã nhiều lần đến nhà anh Tr để tìm Tr đòi nợ nhưng không gặp được anh Tr và không liên lạc được với anh Tr. Nguyễn Thành Đ là người làm thuê cho Ng đã 01 lần đến nhà anh Tr nhưng không biết mặt Tr.

Đến cuối tháng 12/2016 anh Tr về nhà. Do cần tiền để trả nợ nên khoảng 11h’00 ngày 27/12/2016, khi anh Tr đi trên đường Ngô Thì Nhậm, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thì nhìn thấy trên bờ tường có dán tờ rơi quảng cáo cho vay tiền, anh Tr liên hệ với số điện thoại 01634.130.144 trên tờ quảng cáo thì gặp Nguyễn Thành Đ, sau đó được Đ hướng dẫn thủ tục để vay tiền, cụ thể Đ sẽ đến nhà anh Tr để xác định địa chỉ cư trú của anh Tr, nếu chính xác sẽ tiến hành cho anh Tr vay tiền. Ngay sau khi liên lạc với Đ, anh Tr đã hẹn gặp và đưa Đ về nhà, tại đây Đ nhận ra nhà anh Tr chính là nhà trước đây Đ đến đòi nợ nhưng không được. Do nghi ngờ anh Tr chính là người có vay nợ số tiền 15.000.000 đồng từ tháng 05/2016 mà trốn nợ chưa trả hết nhưng vì Đ không biết mặt của người trốn nợ tên Tr nên vẫn đồng ý để anh Tr đến làm thủ tục vay nợ, sau đó Đ gọi điện thoại thông báo cho Ng. Ng bảo Đ đưa anh Tr đến gặp Ng để làm thủ tục vay tiền. Đ thông báo lại cho anh Tr đến số 430 đường NT, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để làm thủ tục vay tiền.

Khoảng 17h00’ cùng ngày, anh Tr đến số 430 đường NT, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội gặp Ng và Đ. Ng hướng dẫn anh Tr viết giấy vay nợ với số tiền 15.000.000 đồng. Anh Tr đưa giấy tờ gồm chứng minh nhân dân của anh Tr và bản sao sổ hộ khẩu cho Ng kiểm tra thì Ng nhận ra anh Tr chính là người nợ tiền Ng chưa trả hết. Ngay khi anh Tr viết xong giấy vay nợ và đưa cho Ng thì Ng hỏi “có phải anh nợ 15.000.000 đồng trước đây ở số 5 phố N chưa trả phải không?”, Ng nói Ng là chủ của cửa hàng số 5 phố N. Khi anh Tr ấp úng chưa kịp trả lời thì Đ lao vào tát 01 cái vào mặt và đấm 01 cái vào cổ anh Tr, anh Tr sợ nên xin Đ không đánh nữa và thừa nhận có vay số tiền 15.000.000 đồng tại số 5 đường N chưa trả hết. Đ không đánh anh Tr nữa. Ng yêu cầu Tr phải trả hết nợ cũ nhưng vì anh Tr không có tiền nên Ng đưa ra yêu cầu anh Tr gọi điện về gia đình để giải quyết hoặc đưa anh Tr lên Công an phường. Anh Tr xin được gọi điện cho người nhà để giải quyết. Anh Tr gọi điện thoại cho mẹ đẻ là bà Tống Thị T nói là có nợ tiền và đang bị chủ nợ bắt giữ lại. Nhận được tin, bà T đi xe đạp từ Văn Quán đến số 430 đường NT để gặp anh Tr. Khi đến nơi, bà T hỏi anh Tr về việc vay nợ và không đồng ý trả nợ thay cho anh Tr và nói việc nợ nần là của anh Tr thì nợ để anh Tr đi làm khi nào có tiền sẽ trả. Ng bức xúc vì câu nói của bà T và nói to yêu cầu bà T ra khỏi nhà. Đ đứng gần nghe thấy bà T không nhận nợ thay cho anh Tr nên bức xúc, dùng 01 chiếc cốc bằng gốm đập 01 nhát vào đầu anh Tr làm cốc bị vỡ với mục đích gây áp lực để gia đình anh Tr phải trả nợ cho Ng. Bà T hoảng sợ và chạy ra ngoài gọi điện thoại trình báo cơ quan Công an. Đ bị chảy máu ở tay do cốc bị vỡ nên cũng ra ngoài để băng vết thương. Ng nói với anh Tr “thôi mẹ anh không giải quyết được thì tôi mời anh lên phường”. Anh Tr xin Ng để gọi điện thoại cho em trai là Lương Thanh S lên trả nợ. Khoảng 15 phút sau thì cơ quan Công an đến giải quyết.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Thị Ánh Ng: 01 điện thoại di động iphone 6 Plus màu vàng hồng; 01 túi nilon bên trong có các mảnh sành vỡ có quai (dạng cốc vỡ).

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thành Đ khai: Nguyễn Thị Ánh Ng giao cho Đ đi dán tờ quảng cáo cho vay tín chấp, khi khách có nhu cầu vay tiền thì trực tiếp thẩm định lý lịch, địa chỉ sau đó dẫn khách đến gặp Ng để vay tiền. Sự việc ngày 27/12/2016, khi biết anh Tr là người nợ Ng số tiền 15.000.000 đồng chưa trả hết và Ng hỏi về số nợ thì anh Tr không trả lời nên Đ bức xúc tát 01 cái vào mặt và đám 01 cái vào cổ anh Tr, anh Tr sợ nên nhận việc nợ tiền của Ng. Khi anh Tr gọi mẹ là bà Tống Thị T đến nhưng bà T không nhận trả nợ cho anh Tr nên Đ bức xúc dùng 01 chiếc cốc bằng gốm đập 01 nhát vào đầu anh Tr làm cốc bị vỡ với mục đích gây áp lực để gia đình anh Tr phải trả nợ cho Ng. Sự việc ngày 27/12/2016, Ng không bàn bạc, chỉ đạo việc Đ sử dụng vũ lực để đòi số tiền nợ của anh Tr, việc Đ đánh anh Tr là do bức xúc bột phát.

Về thương tích của anh Lương Minh Tr: bị xưng nề vùng chẩm, không có tổn thương hộp sọ, không có dấu vết thương tích nào khác. Anh Tr có đơn từ chối giám định thương tích và không đề nghị bồi thường dân sự về việc bị xâm phạm sức khỏe nên không có căn cứ để xử lý Nguyễn Thành Đ về hành vi gây thương tích cho anh Lương Minh Tr.

Đối với Nguyễn Thị Ánh Ng khai: Quá trình yêu cầu anh Lương Minh Tr trả số tiền nợ cũ, Ng không đe dọa buộc anh Tr và bà Tống Thị T phải trả tiền nợ; Ng không bàn bạc, chỉ đạo Nguyễn Thành Đ việc đòi nợ và đánh anh Tr, việc Đ đánh anh Tr là do bức xúc bột phát và dừng lại ngay, Ng không can ngăn được do thời điểm đó Ng đang mang thai ở tháng thứ tám. Do anh Tr không có tiền trả nợ nên Ng yêu cầu anh Tr gọi điện cho người nhà hoặc đưa ra Công an phường giải quyết.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thành Đ khai không biết việc Ng nói gì với anh Lương Minh Tr do Đ đang bức xúc với việc của anh Tr không nhận nợ và mẹ anh Tr không nhận trả nợ cho Ng. Anh Lương Minh Tr và bà Tống Thị T khai Ng không chỉ đạo Đ đánh anh Tr, Ng yêu cầu anh Tr gọi điện cho người nhà hoặc đưa ra Công an phường giải quyết nhưng có lời lẽ đe dọa anh Tr phải trả nợ ngay. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho anh Lương Minh Tr và Nguyễn Thị Ánh Ng đối chất nhưng không làm rõ được mâu thuẫn. Do đó, không đủ căn cứ để xác định Nguyễn Thị Ánh Ng đồng phạm với Nguyễn Thành Đ về hành vi cướp tài sản.

Đối với việc anh Lương Minh Tr vay 15.000.000 đồng của Nguyễn Thị Ánh Ng và ngày 03/5/2016 nhưng mới trả được 2.000.000 đồng, anh Tr không có ý định chiếm đoạt số tiền trên nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Bản Cáo trạng số 187/CT-VKS ngày 03/8/2017 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Nguyễn Thành Đ về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 133 khoản 2 điểm d của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi đánh anh Tr như nội dung vụ án đã nêu nhưng mục đích đánh anh Tr là do bức xúc về việc bị anh Tr lừa để vay tiền trong khi nợ cũ chưa trả. Bị cáo không thừa nhận phạm tội cướp tài sản như cáo trạng đã truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 8 năm tù. Vật chứng: tịch thu tiêu hủy các mảnh sành vỡ đã thu giữ và tịch thu sung công điện thoại đã thu giữ của Nguyễn Thị Ánh Ng.

- Người bị hại là anh Lương Minh Tr: không có yêu cầu về bồi thường dân sự và đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì hành vi của bị cáo không gây hậu quả nghiêm trọng gì đến người bị hại.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo, người bị hại.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành Đ thừa nhận có dùng tay, chân đánh anh Lương Minh Tr và sau đó có dùng một chiếc cốc uống nước bằng sứ đánh vào đầu anhTr, tuy nhiên bị cáo không thừa nhận mục đích đánh anh Tr là nhằm đòi nợ tiền. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa mâu thuẫn với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được, mặt khác tại phiên tòa bị cáo không đưa ra được các lý do xác đáng về việc khai khác trước và vẫn xác nhận những lời khai tại cơ quan điều tra là của bị cáo. Do vậy, lời khai tại phiên tòa của bị cáo về mục đích đánh anh Tr là không có cơ sở.

Căn cứ vào các lời khai của bị cáo Nguyễn Thành Đ tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Ánh Tuyết và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định: Trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 18 giờ ngày 27/12/2016, tại số nhà 430 NT, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thành Đ có hành vi dùng vũ lực với anh Lương Minh Tr để yêu cầu anh Tr phải trả nợ tiền, cụ thể: Khi biết anh Tr đúng là người đã vay số tiền 15.000.000 đồng của Nguyễn Thị Ánh Ng đã quá hạn nhưng chưa trả, Đ dùng tay tát 01 cái vào mặt và đấm 01 cái vào cổ anh Tr khiến anh Tr sợ phải nhận có vay nợ Nguyễn Thị Ánh Ng số tiền 15.000.000 đồng chưa trả hết và xin được gọi điện cho người thân đến trả. Khi bà Tống Thị T là mẹ đẻ của anh Tr đến và nói không đồng ý trả nợ thay cho anh Tr, ngay lập tức Đ dùng 01 chiếc cốc sứ Bát Tràng đập vào đầu anh Tr gây thương tích và làm vỡ cốc với mục đích gây áp lực để gia đình anh Tr phải trả nợ cho Ng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đ dùng cốc sứ để đánh vào đầu anh Tr là thuộc trường hợp “sử dụng phương tiện nguy hiểm”, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thành Đ về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 133 của Bộ luật hình sự là đúng tội, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe và quyền sở hữu về tài sản của công dân được luật hình sự bảo vệ; bị cáo Nguyễn Thành Đ thực hiện hành vi với tính chất tự phát, nôn nóng, bức xúc trước việc trây ỳ không trả nợ của người bị hại nên đã nhất thời phạm tội, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Đ chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy cần phải cách ly bị cáo Nguyễn Thành Đ ra khỏi xã hội một thời gian với mức án như đại diện viện kiểm sát đề nghị mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Lương Minh Tr xác định thương tích nhẹ và không có yêu cầu gì về dân sự.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon bên trong có các mảnh vỡ có quai (dạng cốc vỡ) theo điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự.

- Trả lại cho Nguyễn Thị Ánh Ng 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng hồng vì không phải là vật chứng của vụ án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Đ phạm tội “Cướp tài sản”;

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76, các điều 99, 231, 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ 07 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2016;

- Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 túi nilon bên trong có các mảnh vỡ có quai (dạng cốc vỡ); Trả lại cho chị Nguyễn Thị Ánh Ng 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng hồng. Các vật chứng nêu trên hiện lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, theo biên bản bàn giao vật chứng số 187 ngày 07/8/2017.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan trong bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 189/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội cướp tài sản

Số hiệu:189/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về