Bản án 188/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 188/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 185/2020/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2020 về tội “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

Phan Công Đ , sinh năm 1993 tại Nghệ An; nơi thường trú: Xóm S, xã N, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Công B (đã chết) và bà Phạm Thị K, sinh năm 1960; chưa có vợ, con;

Tiền sự: Không; Tiền án:

- Ngày 05/9/2018, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 215/2018/HSST, bị cáo chưa chấp hành việc nộp án phí.

- Ngày 27/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của Bản án số 215/2018/HSST của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 18/01/2020, bị cáo chấp hành xong việc nộp án phí; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Vương Kh D , sinh năm 1994; địa chỉ: Khu phố L, phường Kh, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Võ Thị D1, sinh năm 1984; địa chỉ: Ấp H, xã Đ, thị xã L, tỉnh Tiền Giang; vắng mặt - Ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1985; địa chỉ: Khu phố L, phường Kh, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Đỗ Quốc Kh, sinh năm 1989; vắng mặt.

- Ông Huỳnh Việt Th, sinh năm 1980; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Công Đ và đối tượng tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) có mối quan hệ là bạn với nhau.

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 17/5/2020, khi Đ đang uống cà phê tại một quán cà phê (không rõ tên) thuộc phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, thì T gọi điện thoại rủ Đ đi đến thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương chơi, Đ đồng ý. Do không có xe đi nên Đ đón xe ôm đi đến một ngã tư, cách ngã tư 550 khoảng 02 km thuộc phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đứng đợi Tuyền. Khoảng 5 phút sau T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu đen (không rõ biển số) chạy đến. Sau đó, T điều khiển xe mô tô chở Đ ngồi phía sau chạy về hướng thị xã Tân Uyên. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, khi Đ và T đi đến đoạn đường thuộc tổ 3, khu phố Kh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, thì T nhìn thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ đen biển số 63P1 – 243.32 của anh Vương Kh D đang dựng trước cửa nhà, trên ổ khóa xe vẫn đang cắm sẵn chìa khóa. Lúc này, T quay lại nói với Đ rằng “có chiếc Vision cắm sẵng chìa khóa kìa” và T kêu Đ lấy trộm, Đ đồng ý. Sau đó, T quay xe lại dừng xe cách vị trí xe mô tô 63P1 – 243.32 đang dựng khoảng 10 mét, Đ xuống xe quan sát xung quanh thấy không có người trong coi xe, Đ đi lại vị trí xe 63P1 – 243.32 và ngồi lên yên xe dùng tay phải bật chìa khóa khởi động xe, điều khiển xe chạy tẩu thoát về hướng thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Trong lúc Đ khởi động máy xe thì ông D đứng trong nhà nhìn thấy và truy hô. Nghe tiếng truy hô ông Đỗ Quốc Kh đang ngồi uống nước gần đó nhìn thấy nên điều khiển xe mô tô cùng ông D truy đuổi theo Đ . Khi Đ điều khiển xe 63P1 – 243.32 đến khu vực chợ Đông Đô thuộc phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì va chạm với xe mô tô của ông Huỳnh Việt Thanh làm cả hai té xuống đường. Lúc này ông D và Kh đuổi kịp và bắt giữ Đ giao cho Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển số 63P1 – 243.32; 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Công Đ ; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63P1 – 243.32.

Sau đó, Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận Đ giá tài sản trong tố tụng hình sự số 196/KLTS-TTHS ngày 24/5/2020 của Hội đồng Đ giá tài sản thị xã Tân Uyên, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển số 63P1 – 243.32 đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 16.750.000 đồng (Mười sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 186/CT-VKSTU ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Phan Công Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Công Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen; trả cho bị cáo Phan Công Đ 01 chứng minh nhân dân mang tên bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bi hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa.

Nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:

1 Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

2 Tại phiên tòa, bị cáo Phan Công Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, của người làm chứng. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/5/2020, tại Tổ 3, khu phố Khánh Lợi, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phan Công Đ cùng đồng phạm tên T đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của ông Vương Kh D lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển số 63P1-243.32, trị giá tại thời điểm chiếm đoạt là 16.750.000 đồng (Mười sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý nghi ngờ, mất lòng tin lẫn nhau trong nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị, nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên đã cố ý thực hiện. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về vai trò của bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó đối tượng T có vai trò đề xuất và thực hành tích cực; bị cáo Đ là người trực tiếp trộm cắp tài sản của bị hại.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[7] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[8 Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, đây là phương tiện giữa bị cáo và đối tượng tên T liên lạc với nhau để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên bị cáo là giấy tờ tùy thân nên cần trả lại bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, biển số 63P1- 243.32 do bà Võ Thị D1 đứng tên đăng ký sở hữu. Tháng 3/2020, bà D1 bán cho ông Nguyễn Quốc H nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ông H cho em là ông Vương Kh D mượn làm phương tiện đi lại, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã trả lại xe và giấy tờ xe cho ông Nguyễn Quốc H, là phù hợp.

[10] Đối với đối tượng tên T có hành vi đồng phạm với bị cáo Phan Công Đ , do chưa xác định được nhân thân lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau, là phù hợp.

[11] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Công Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Phan Công Đ 02 năm 03 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/5/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen.

- Trả cho bị cáo Phan Công Đ 01 chứng minh nhân dân mang tên Phan Công Đ ;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã tân Uyên,tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo Phan Công Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

- Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:188/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về