Bản án 188/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 188/2020/HSST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2020; tại: Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 160/2020/HSST ngày 11 tháng 4 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 267/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hà G; Sinh ngày: 07 tháng 11 năm 1975 tại tỉnh B; Nơi cư trú: Khối X, phường H, thành phố V, tỉnh NA; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình H (chết) và bà: Nguyễn Thị Xuân D, Sinh năm: 1940; Có vợ: Lương Thị Q, Sinh năm: 1989 (đã ly hôn); Và có 1 con: sinh năm 2015; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 135/2018/HS-ST ngày 07/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 04/11/2019; Nhân thân:

- Ngày 18/9/2001, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 01/11/2003.

- Ngày 20/7/2004, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 03/9/2006.

- Ngày 20/4/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh xử phạt 5 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 01/12/2011. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Anh Phạm Văn T; Sinh năm: 1984; Địa chỉ: Xóm K, xã N, thành phố V, NA. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 11 giờ 45 phút ngày 02/3/2020, tại khu vực ngã tư đèn xanh - đỏ, giao nhau giữa đường N và đường Q, thuộc khối 9, phường Q, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; tổ công tác Công an xã N, thành phố Vinh phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Hà G tàng trữ trái phép 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,275 gam mục đích để sử dụng.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 02/3/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh và Kết luận giám định số 340/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 06/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Hà G gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Chất tinh thể màu trắng (01 gói) thu giữ của Nguyễn Hà G có khối lượng là 0,275 gam”.

Tại Bản cáo trạng số 198/CT-VKS-TPV ngày 10/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Nguyễn Hà G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hà G khai nhận như sau: Vào khoảng 10 giờ ngày 02/3/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Hà G điện thoại cho một người đàn ông tên C (G không rõ lai lịch, địa chỉ) để hỏi mua 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá. Qua trao đổi, C đồng ý bán và hẹn G đến khu vực xã H, huyện HN để giao nhận. Thống nhất xong, G thuê xe máy lai đi đến chỗ hẹn gặp C, G đưa cho C số tiền 290.000 đồng. C cầm tiền, rồi đưa cho G 01 gói polyetylen màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. G cầm gói ma túy rồi đi về. Khi G đi đến khu vực ngã tư đèn xanh – đỏ, quốc lộ 1 giao nhau với đường N thuộc khối 9, phường Q, thành phố Vinh thì bị tổ công tác Công an xã N, thành phố Vinh phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói polyetylen màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy Methamphetamine có khối lượng đúng như Kết luận giám định đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như tại Bản cáo trạng số 198/CT- VKS-TPV ngày 10/4/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hà G từ 18 đến 21 tháng tù.

Ngoài ra, còn đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và xử lý vật chứng là: Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015, Điều 47 BLHS 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định là 0,125 gam Methamphetamine và tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động NOKIA 105 vỏ màu xanh, đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Hà G.

Và tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết, không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Căn cứ vào: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay, lời khai của người làm chứng anh Phạm Văn T (BL 58 – 62); Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi cất giấu trái phép 0,275 gam ma túy (Methamphetamine) để sử dụng của Nguyễn Hà G đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.

[2.2]. Đây là vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, tệ nạn sử dụng các loại ma túy tổng hợp đang có chiều hướng gia tăng và gây nên nhiều hệ lụy cho xã hội nên Đảng và nhà nước đang kiên quyết đấu tranh nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi cộng đồng xã hội. Bản thân bị cáo lại có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt nhiều lần cũng về các tội phạm ma túy, nhưng không chịu lấy đó làm bài học mà vừa chấp hành xong hình phạt một thời gian ngắn lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội, phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích của lần phạm tội trước thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức pháp luật kém, thiếu ý chí tu dưỡng, rèn luyện để sửa chữa sai lầm. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn; trong gia đình bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên cần áp dụng điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 để giảm nhẹ phần nào hình phạt đối với bị cáo.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đ đến 500.000.000 đồng nhưng xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định; lại là người nghiện ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên miễn cho bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của G thì có người đàn ông tên C đã bán trái phép ma túy cho G nhưng do G không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy, khi nào xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.

[2.5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ tại Nguyễn Hà G, sau khi lấy đi giám định còn lại là 0,125 gam Methamphetamine là đối tượng phạm tội cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Còn 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 vỏ màu xanh đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hà G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

*. Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Hà G: 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 02/3/2020.

*. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015: - Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong, trong có chứa 0,125 gam Methamphetamine thu giữ tại Nguyễn Hà G (một mặt của phong bì có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đối tượng Nguyễn Hà G”).

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động NOKIA 105 vỏ màu xanh thu giữ tại Nguyễn Hà G.

(Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK 0256 ngày 16/4/2020).

*. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hà G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 188/2020/HSST ngày 19/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:188/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về