Bản án 187/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 187/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 185/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09 tháng 6 năm 1982 tại Thái Bình; nơi cư trú: Phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D (đã chết) và bà Đỗ Thị L (bà L được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất); có vợ là Lã Thị Mỹ H; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 48/HSST ngày 25 tháng 5 năm 2000 của Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Hoàng L 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Nguyễn Hoàng L chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 25 tháng 5 năm 2001, chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 25 tháng 8 năm 2003; Quyết định số 468/QĐ-UBND ngày 15 tháng 6 năm 2007 của UBND thành phố Thái Bình đưa Nguyễn Hoàng L vào cơ sở chữa bệnh thời gian 12 tháng. Nguyễn Hoàng L chấp hành xong tháng 6 năm 2008; bị bắt tạm giữ từ ngày 28 tháng 8 năm 2019 đến ngày 31 tháng 8 năm 2019 chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Trần Văn T, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn Q, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt)

- Người chứng kiến:

1. Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt)

2. Ông Đỗ Nam M, sinh năm 1955; Nơi cư trú: Phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 28 tháng 8 năm 2019, Nguyễn Hoàng L đi bộ từ nhà đến khu vực đê N thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, L đã gặp và mua 01 gói ma túy với giá 50.000 đồng của 01 người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ. Mua xong, L cất gói ma túy vào túi quần bên phải phía trước đang mặc và đi về nhà. Khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, khi L đang ở nhà mình thì Trần Văn T đến hỏi mua 01 gói hêrôin, đi cùng T còn có anh Dương Ngọc H là người được T thuê chở xe ôm. L đồng ý và đã bán cho T 01 gói ma túy (hêrôin) với giá 70.000 đồng. Khi L vừa nhận tiền và giao ma túy cho T thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H và ông Đỗ Nam M, tổ công tác kiểm tra người T phát hiện và thu giữ tại túi quần bên trái phía trước đang mặc 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai đó là ma túy T vừa mua của L với giá 70.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân, tổ công tác niêm phong gói ma túy; kiểm tra người Nguyễn Hoàng L, thu giữ tại túi quần bên phải phía trước L đang mặc số tiền 70.000 đồng, L khai đó là tiền vừa bán 01 gói ma túy cho T; ngoài ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoàng L nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Tại Kết luận giám định số 354/KLGĐ-PC09 ngày 29 tháng 8 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Hoàng L là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0079 gam (không phẩy không nghìn không trăm bảy mươi chín gam).

Cáo trạng số 192/CT-VKSTP ngày 24 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Nguyễn Hoàng L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Nguyễn Hoàng L khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu; đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Hoàng L mức án từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy số ma túy được niêm phong trong phong bì số 354/KLGĐ; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 70.000 đồng do Nguyễn Hoàng L phạm tội mà có.

Bị cáo Nguyễn Hoàng L đồng ý với tội danh Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Nguyễn Hoàng L nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, Nguyễn Hoàng L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Nguyễn Hoàng L có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,0079 gam cho Trần Văn T, sinh năm 1993, trú tại thôn Q, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm…”. Hành vi của Nguyễn Hoàng L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, trong đó ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại rất xấu cho sức khỏe của con người, góp phần tạo ra một lớp người nghiện ma túy, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, ma túy đang là một tệ nạn làm ảnh hưởng rất xấu tới nhiều mặt của đời sống xã hội, làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh trí tuệ của con người, là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS..., và là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm khác. Bị cáo là người đã thành niên, có nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vì hám lời nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi trên của Nguyễn Hoàng L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Nguyễn Hoàng L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mẹ bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cẩm đảm nhiệm chức vụ, cẩm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ”. Xét thấy, Nguyễn Hoàng L mua bán chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với Trần Văn T là người đã mua ma túy của Nguyễn Hoàng L vào ngày 28 tháng 8 năm 2019, mục đích sử dụng cho bản thân. Xét thấy, Trần Văn T chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma túy tàng trữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, ngày 30 tháng 8 năm 2019 cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là đúng pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma túy thu giữ trong vụ án còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 70.000 đồng do Nguyễn Hoàng L phạm tội mà có do đó cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước;

[8] Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Hoàng L khai mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ, tại khu vực đê N thuộc phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hoàng L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 28 tháng 8 năm 2019).

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Hoàng L 5.000.000đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của Trần Văn T còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 354/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

3.2. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 70.000 đồng thu của bị cáo Nguyễn Hoàng L.

(Các vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 10 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hoàng L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07 tháng 11 năm 2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 187/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:187/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về