Bản án 186/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 186/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 254/2019/TLST-HS ngày 10/7/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/QĐXXST-HS ngày 18/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 110/2019/HS-QĐ ngày 02/8/2019, đối với các bị cáo:

1. Võ Đình H, sinh năm 1984, tại Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 498/20 (số cũ: 206/6) Lê Hồng P, phường Phước H, thành phố Nha T, tỉnh Khánh Hòa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Võ B (sinh năm: 1949); Mẹ: Trần Thị G (sinh năm: 1952); Vợ: Huỳnh Thị T (sinh năm: 1987); Con: Võ Khôi N (sinh năm: 2014) và Võ Phương Mỹ L (sinh năm: 2017).

Tin án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 30/01/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Phan Tái U (Tên gọi khác: U), sinh năm 1980, tại Khánh Hòa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ 07 Hà R, phường Vĩnh P, thành phố Nha T, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở hiện tại: Tổ 14 Ngọc T, phường Ngọc H, thành phố Nha T, tỉnh Khánh Hòa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 02/12; Nghề nghiệp: Không; Cha: Phan Gia T (chết); Mẹ: Trần Thị S (chết); Vợ: Đào Thanh L (sinh năm: 1986); Có 03 người con: Lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm: 2016.

Tin án: 01 tiền án.

+ Ngày 01/02/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 tại bản án số 15/2016/HS-PT. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2017.

Tin sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 18/4/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, tại bản án số 47/2005/HSPT. Chấp hành xong hình phạt ngày 04/9/2010.

+ Ngày 23/5/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang tuyên phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, tại bản án số 110/2019/HSST.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Nguyễn Thị Nhật P;

Địa chỉ: 68 Ngô Gia T, phường Phước T, Nha T, Khánh Hòa. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Long Anh H;

Nơi ĐKNKTT: 42 đường A, Vĩnh H, Nha T, Khánh Hòa.

Đa chỉ: 144 Hương Lộ Ngọc H, Ngọc H, Nha T, Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Đào Thanh L;

Địa chỉ: Tổ 14 Ngọc T, phường Ngọc H, thành phố Nha T, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 00 phút ngày 17/02/2019, Phan Tái U điều khiển xe máy hiệu Lead màu đỏ (không rõ biển kiểm soát) chở Võ Đình H đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đến trước nhà chị Nguyễn Thị Nhật P tại địa chỉ số 68 đường Ngô Gia T, phường Phước T, Nha T, cả hai phát hiện xe máy hiệu Vision màu trắng, biển kiểm soát: 79N1-822.42 của chị P đang dựng trước nhà không có người trông giữ nên cả hai dừng xe, lén lút phá khóa cổ xe Vision, rồi điều khiển xe về nhà trọ của Phan Tái U đang thuê tại tổ 14 Ngọc T, Ngọc H, Nha T để cất giấu. Đến sáng ngày 18/02/2019, U mang xe trên bán cho Nguyễn Long Anh H với giá 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 71/HĐĐG ngày 19/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố Nha Trang kết luận, tại thời điểm xảy ra vụ việc, xe mô tô Vision màu trắng, biển kiểm soát 79N1- 822.42 trị giá 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng).

Tại Bản cáo trạng số 172/CT-VKS-NT ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố các bị cáo: Võ Đình H và Phan Tái U về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Võ Đình H từ 06 tháng đến 12 tháng tù;

- Khoản 1 Điều 173; khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Tái U từ 12 tháng đến 18 tháng tù;

Ngoài ra, đề nghị xem xét trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Đình H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và bị cáo Phan Tái U sau khi trình bày quanh co, chối tội cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội. Đồng thời, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại bà Nguyễn Thị Nhật P vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Long Anh H vắng mặt.

Xét thấy, việc vắng mặt của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại là bà Nguyễn Thị Nhật P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Long Anh H, theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Võ Đình H không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Riêng bị cáo Phan Tái U có ý kiến về nội dung bản Kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang không đúng với sự thật và cán bộ tiến hành tống đạt bản Kết luận điều tra cho bị cáo nhưng không ghi rõ ngày giờ vào biên bản tống đạt. Tuy nhiên, tại Biên bản giao nhận bản Kết luận điều tra đề ngày 17/5/2019, chính bị cáo U đã ghi “Tôi đồng ý với nội dung của bản kết luận điều tra” và ký tên “Phan Tái U”. Mặt khác, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, bị cáo U cũng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để xác định các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo theo cáo trạng truy tố:

Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U khai nhận hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; Biên bản kiểm tra dữ liệu điện tử (Hình ảnh camera). Phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Vật chứng vụ án bị thu giữ cùng các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 21 giờ ngày 17/02/2019, tại nhà số 68 Ngô Gia T, phường Phước T, thành phố Nha T, các bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp xe máy hiệu Vision màu trắng, biển kiểm soát 79N1-822.42 của chị Nguyễn Thị Nhật P. Tài sản có giá trị 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng).

Hành vi của các bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 172/CT-VKSNT ngày 28/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; Làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nên xét tính chất, mức độ, vai trò và nhân thân của từng bị cáo trong vụ án để có mức hình phạt phù hợp:

- Xét vai trò của các bị cáo: Khi thấy chiếc xe Vision màu trắng của chị Nguyễn Thị Nhật P đang dựng trước cổng nhà, không có ai trông coi, chính bị cáo Võ Đình H là người rủ rê bị cáo Phan Tái U trộm cắp chiếc xe nói trên. Nhưng bị cáo U lại là người trực tiếp thực hiện hành vi phá khóa cổ xe. Sau đó, cả hai bị cáo cùng điều khiển xe về nhà trọ của U để cất giấu. Tại Tòa, các bị cáo đều khai nhận nếu bán được xe thì tiền sẽ được chia đôi. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định vai trò của bị cáo H và bị cáo U trong vụ án này là ngang nhau.

- Xét nhân thân của các bị cáo:

+ Bị cáo Phan Tái U có nhân thân rất xấu. Bị cáo đang có 01 tiền án về tội “Cố ý gây thương tích”, chưa được xóa án tích nhưng vẫn cố ý tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo, đồng thời là tình tiết tăng nặng “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ngày 23/5/2019, bị cáo U bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và bị tuyên phạt 01 (Một) năm tù (Tại Bản án số 110/2019/HSST). Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015, buộc bị cáo Phan Tái Út phải chấp hành hình phạt 01 (Một) năm tù của Bản án số 110/2019/HSST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang và tổng hợp với hình phạt của bản án này.

+ Bị cáo Võ Đình H tuy chưa có tiền án tiền sự nhưng ngày 30/01/2019, bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang khởi tố bị can về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Theo Quyết định khởi tố bị can số 101 ngày 30/01/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang).

Mặc dù, vai trò của bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U trong vụ án này là ngang nhau nhưng xem xét nhân thân của các bị cáo thì thấy nên có hình phạt nghiêm khắc hơn đối với bị cáo U. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, gia đình bị cáo Võ Đình H tự nguyện bồi thường số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) và gia đình bị cáo Phan Tái U tự nguyện bồi thường số tiền 02.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho bị hại. Ngày 16/7/2019, bị hại Nguyễn Thị Nhật P đã có đơn xác nhận về việc nhận số tiền 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) và yêu cầu bãi nại đối với các bị cáo. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Võ Đình H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Tái U không thành khẩn khai báo, chưa thể hiện sự ăn năn hối cải nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Nhưng bị cáo có tác động gia đình bồi thường một phần cho bị hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Đi với đối tượng Nguyễn Long Anh H đã mua xe Vision do Phan Tái U và Võ Đình H trộm cắp, sau đó gửi xe cho đối tượng tên “Bi” (Không xác định được nhân thân, lai lịch); hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[5] Đi tượng tên “Bi” (Không xác định được nhân thân, lai lịch) đã mang xe Vision, biển kiểm soát 79N1-822.42 gửi đi thành phố Hồ Chí Minh; hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đang tiếp tục điều tra, xác minh nhân thân, lai lịch, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Nhật P đã nhận số tiền bồi thường 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Số tiền 5.600.000 đồng (Năm triệu sáu trăm ngàn đồng) là tiền do phạm tội mà có, nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. (Theo giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước ngày 21/5/2019).

- 01 quần jean lửng màu xanh có hình cá chép màu trắng đen, 01 áo thun đen ngắn tay có chữ màu trắng, 01 mũ kết lưỡi trai màu đen, 01 đôi dép màu đen, 01 áo khoác màu xám vải dù, 01 quần bò màu xanh dài, 01 mũ vải màu đen lưỡi trai có kí hiệu Nike màu trắng và 01 biển kiểm soát số 79N1-822.42: Do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/6/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Võ Đình H;

Xử phạt: Bị cáo Võ Đình H 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (Ngày 19/02/2019).

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Phan Tái U (Tên gọi khác: U);

Xử phạt: Bị cáo Phan Tái U 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tng hợp hình phạt 01 (Một) năm tù của Bản án số 110/2019/HS-ST 23/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang. Buộc bị cáo Phan Tái U phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (Ngày 19/02/2019) nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ trước đó (Từ ngày 20/11/2018 đến ngày 29/11/2018, theo bản án hình sự sơ thẩm số 110/2019/HS-ST ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang).

- Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 5.600.000 đồng (Năm triệu sáu trăm ngàn đồng), theo giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước ngày 21/5/2019.

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 quần jean lửng màu xanh có hình cá chép màu trắng đen, 01 áo thun đen ngắn tay có chữ màu trắng, 01 mũ kết lưỡi trai màu đen, 01 đôi dép màu đen; 01 áo khoác màu xám vải dù, 01 quần bò màu xanh dài, 01 mũ vải màu đen lưỡi trai có kí hiệu Nike màu trắng và 01 biển kiểm soát số 79N1-822.42.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/4/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang).

- Về án phí: Các bị cáo Võ Đình H và Phan Tái U, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 186/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:186/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về