TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 184/2020/HSST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:
Lê Văn Q; tên gọi khác: Không có, sinh năm 1975 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đội *, xóm D, xã G, huyện T, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; con ông Lê Văn Q1, sinh năm 1941 (đã chết) và bà Đặng Thị M, sinh năm 1940, có vợ là Đỗ Thị N, sinh năm 1974 và có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 28/5/1996 bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Hà, xử phạt 6 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích (đã xóa án tích); bị bắt để tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/7/2020 đến nay, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trương Thị H, sinh năm 1978; trú tại: Thôn Khòn Phổ, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 11 giờ 30 phút, ngày 28/7/2020 tổ công tác của Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại khu vực đường Phai Vệ, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Lê Văn Q đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Lê Văn Q 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra còn tạm giữ 01 chiếc xe đạp màu trắng bạc, trên khung xe có chữ "Sprote" và "PLGM".
Tại bản kết luận giám định số 231/KL-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn Q gửi giám định là chất ma túy Heroin có khối lượng 0,167 gam (đã trừ bì).
Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn Q khai nhận: Bản thân Lê Văn Q sử dụng chất ma túy từ đầu năm 2020 đến nay. Khoảng 11 giờ 15 phút, ngày 28/7/2020 Lê Văn Q một mình điều khiển xe đạp đi đến khu vực cổng chợ Đông Kinh thuộc phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn để tìm mua chất ma túy về sử dụng. Tại quán nước, cổng chợ Đông Kinh bị cáo Lê Văn Q gặp một người phụ nữ (không biết lai lịch, địa chỉ), qua nói chuyện Lê Văn Q biết người phụ nữ có bán ma túy Heroine, Lê Văn Q hỏi mua ma túy thì được người phụ nữ đồng ý. Sau đó Lê Văn Q đưa 100.000 đồng, người phụ nữ cầm tiền rồi đưa lại cho Lê Văn Q 01 gói giấy màu trắng chứa chất ma túy Heroine. Lê Văn Q cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe đạp đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ lượng ma túy như nêu trên.
Tại cáo trạng số 181/CT-VKS ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với bị cáo Lê Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Vật chứng vụ án hiện thu giữ gồm 01 phong bì niêm phong bên trong là chất ma túy (còn lại sau giám định); đối với xe đạp màu trắng bạc, trên khung xe có chữ "Sprote" và "PLGM", cơ quan điều tra đã trả lại chị Trương Thị H là chủ sở hữu.
Đối với chị Trương Thị H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, trình bày chị Trương Thị H là người làm phụ hồ cùng bị cáo, khi cho mượn xe chị Trương Thị H không biết bị cáo sử dụng để đi mua ma túy, nay chị đã nhận lại xe đạp, không có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn Q từ 12 đến 15 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, do bị cáo không có tài sản riêng; về vật chứng, áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự đề nghị tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; xác nhận Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả lại chiếc xe đạp cho chủ sở hữu chị Trương Thị H.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội cải tạo, sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã được tống đạt các văn bản quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự, không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, có giá trị pháp lý.
[2] Về nội dung vụ án có đủ căn cứ xác định, vào hồi 11 giờ 30 phút, ngày 28/7/2020, tại khu vực đường Phai Vệ, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn Lê Văn Q đang cất giấu trong tay trái 01 gói chất ma túy Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt giữ quả tang. Căn cứ kết luận giám định số 231/KL-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn: Chất bột màu trắng thu giữ của Lê Văn Q là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,167 gam. Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đây là chất mà Nhà nước cấm mua, bán, tàng trữ, sử dụng, với khối lượng chất ma túy Heroine trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam thì người nào lưu giữ chất ma túy với khối lượng trên để sử dụng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tăng nặng, không có; về giảm nhẹ, tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án nhưng được xóa án tích theo luật định; việc bị cáo cố ý sử dụng ma túy, xác định bị cáo không có ý thức chấp hành quy định của pháp luật.
[5] Từ những nhận định, phân tích nêu trên, thấy hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội, là nguyên nhân gây ra các tội phạm khác. Nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, tương xứng với hành vi, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo, để bị cáo có thời gian cải tạo sau này trở thành công dân tốt có ý thức chấp hành pháp luật.
[6] Về hình phạt bổ sung, qua xác minh, xét hỏi tại phiên tòa, thấy bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng. Nên không phạt bổ sung là phạt tiền.
[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định, vì là vật cấm. Đối với chiếc xe đạp, bị cáo mượn của chị Trương Thị H người làm phụ hồ cùng bị cáo, nhưng chị Trương Thị H không biết bị cáo mượn để đi mua ma túy, nên Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe này cho chủ sở hữu là phù hợp. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Lê Văn Q do không biết rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý trong vụ án này.
[9] Tại phiên tòa đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và có căn cứ pháp luật. Nên Hội được đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 61; Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Lê Văn Q 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 7 năm 2020.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong đựng mẫu vật là chất ma túy còn lại sau giám định.
(Chi tiết các vật chứng trên được miêu tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/10/2020 giữa Công an thành phố Lạng Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn).
3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 184/2020/HSST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 184/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về