TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 184/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ T VÀ ÔNG P
Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 588/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/12/2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/4/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22/4/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Thanh T, sinh năm 1992; địa chỉ: đường T, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh;
Bà T có đơn xin vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Võ Minh P, sinh năm 1988; địa chỉ: đường T, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh;
Ông P vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/11/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Võ Thị Thanh T trình bày:
Bà T và ông Võ Minh P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 10, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/02/2014.
Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên là Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016.
Trong quá trình chung sống với nhau, bà T và ông P xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu là do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Bà T cho rằng ông P thường xuyên ghen tuông vô cớ và có lời nói xúc phạm bà, không tôn trọng cha, mẹ vợ. Mặc dù bà T cũng đã cố gắng khuyên nhủ để ông P thay đổi nhưng không có kết quả, cả hai đã sống ly thân gần 02 năm nay. Bà T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông P để bà ổn định cuộc sống.
Về con chung: Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng trẻ Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016. Trong Đơn khởi kiện bà T có yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà T có đơn xin rút yêu cầu cấp dưỡng. Bà T không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định trong quá trình chung sống với ông P cả hai không có tài sản chung, không có nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.
Tại phiên tòa, bà Võ Thị Thanh T có đơn xin vắng mặt. Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong Đơn khởi kiện đã nêu và ý kiến bà đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ kiện tại Tòa án.
Về phía bị đơn: Ông Võ Minh P có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại địa chỉ số đường T, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án nhân dân Quận 11 đã thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông P nhưng ông chỉ đến tòa lập Bản tự khai vào ngày 25/12/2019.
Trong bản tự khai ông P xác định chung sống với bà T từ năm 2014, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016. Khi ly hôn ông P đồng ý giao trẻ N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), tài sản chung và nợ chung: không có. Những lần Tòa án triệu tập sau đó ông P đều vắng mặt, do đó Toà án không thể tiến hành hoà giải đối với bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà T và ông P thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại các buổi hòa giải ông P đều không đến, chứng tỏ ông P cũng không có thiện chí muốn đoàn tụ với bà T. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông P là trầm trọng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của bà T có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Võ Thị Thanh T; giao trẻ Võ Huỳnh Bảo N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con do bà T rút yêu cầu. Ghi nhận sự tự nguyện của ông P về việc cấp dưỡng trẻ N 1.000.000 đồng/1tháng; về tài sản chung và nợ chung: Không có. Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quân 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Võ Thị Thanh T có đơn yêu cầu ly hôn với ông Võ Minh P, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại Kết quả xác minh của Công an Phường 1, Quận 11 thì ông P có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại Quận 11. Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Võ Thị Thanh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Võ Minh P vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho ông P nhưng ông P đều vắng mặt, không đến Tòa giải quyết. Ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Thanh T và ông Võ Minh P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 10, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/02/2014. Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông P là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Bà T và ông P chung sống có 01 con chung tên là Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016.
Mâu thuẫn giữa bà T và ông P phát sinh nguyên nhân chính do cả hai bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống mà không thể giải quyết được. Ông P thường hay ghen tuông vô cớ và có lời nói xúc phạm bà T, không tôn trọng gia đình vợ. Bà T cũng đã cố gắng khuyên nhủ để ông P thay đổi nhưng không có kết quả, bà T và ông P đã sống ly thân gần 02 năm. Nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn nên bà T xin ly hôn với ông P.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông P. Ông P biết nội dung khởi kiện và yêu cầu của bà T nhưng trong các lần hòa giải và đến phiên tòa hôm nay ông P đều không đến Tòa để giải quyết. Điều đó cho thấy ông P không có thiện chí muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Qua sự việc đã nêu thể hiện tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông P đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà Võ Thị Thanh T.
[4] Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Bà T và ông P chung sống có 01 con chung tên là Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016. Hiện nay trẻ N đang ở cùng với bà T, do bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết giao trẻ N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà T về việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà T có đơn rút yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà T.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Minh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ghi nhận lời khai của bà T xác định bà và ông P không có tài sản chung và nợ chung. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Án phí về cấp dưỡng nuôi con ông Võ Minh P phải chịu là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Về hôn nhân:
Chấp nhận yêu cầu của bà Võ Thị Thanh T. Cho ly hôn giữa bà Võ Thị Thanh T và ông Võ Minh P.
Giấy chứng nhận kết hôn số 10, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/02/2014 do Ủy ban nhân dân Phường 1, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị pháp lý.
2. Về nuôi con chung:
Giao trẻ tên Võ Huỳnh Bảo N, sinh ngày 10/3/2016 cho bà Võ Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Minh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).
Vào ngày 01 dương lịch hàng tháng ông Võ Minh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là số tiền là 1.000.000 đồng/tháng (Một triệu đồng một tháng). Bắt đầu thực hiện từ ngày 01/6/2020 cho đến khi phát sinh các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Ông P được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở ông P thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.
3. Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà T yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Bà T có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại đối với yêu cầu trên.
4. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0015080 ngày 14/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.
Ông Võ Minh P phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
6. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
7. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014)./.
Bản án 184/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 về ly hôn giữa bà T và ông P
Số hiệu: | 184/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về