Bản án 184/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 184/2019/HS-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 182/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Viết T, sinh ngày 20/10/1990 tại Đồng Nai. HKTT và trú tại: ấp Q, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm vườn ươm. Trình độ học vấn: 09/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Thiên chúa. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Viết T (đã chết) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1966. Có vợ: Phạm Thị Khánh L, sinh năm 1991 và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị giam giữ từ ngày 30/6/2019. (Có mặt).

*Người làm chứng: Anh Trần Bá C, sinh năm 1984. (Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Viết T là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2018, loại ma túy T sử dụng là ma túy đá. Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/6/2019 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T sử dụng điện thoại di động hiệu Oppo có số sim 0937.798.935 liên hệ với đối tượng tên D (không rõ nhân thân lai lịch) để hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá, D đồng ý và hẹn T đến khu vực đường ray xe lửa ở ấp T, xã B, huyện T để giao ma túy. Sau khi mua được ma túy, T cất vào túi quần và đi về nhà ở xã Q, huyện T. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, T gọi điện thoại cho Trần Bá C (là bạn bè quen biết ngoài xã hội và cũng là đối tượng nghiện ma túy) nhờ C chở T đến xã B để giải quyết công việc. Khi C đến, T rủ C ra khu vực vườn ươm cách nhà của T 2km để sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong C có việc đột xuất nên C đi về, đến khoảng 20 giờ cùng ngày C điều khiển xe mô tô biển số xxxx.xxxxx quay lại chở T, khi đi đến khu vực ấp A, xã B, huyện T thì bị Công an xã B kiểm tra, lúc này T lấy trong túi quần 01 túi vải vứt xuống đất. Công an xã B đã kiểm tra túi vải phát hiện bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu (T khai là ma túy đá) và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy nên đã lập biên bản phạm tội quả tang và bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bom giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 túi vải bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Oppo; số tiền 3.200.000 đồng; 01 bình xịt hơi cay; 01 điện thoại di động hiệu Sony và 01 xe mô tô biển số xxxx.xxxxx.

Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nêu trên. Tại Bản kết luận giám định số 662/PC09-GĐMT ngày 10/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,4314 gam loại Methamphetamine.

Ngày 09/7/2019 Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Viết T để điều tra. Quá trình điều tra T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm như đã nêu ở trên.

Xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định vụ số 662/PC09-GĐMT ngày 10/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 3.200.000 đồng của T không liên quan đến việc phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo T (Bà P mẹ bị cáo đã nhận thay bị cáo).

+ Chiếc điện thoại di động hiệu Sony của Trần Bá C, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho C

+ 01 bình xịt hơi cay thu giữ của Trần Bá C, quá trình điều tra C khai được một người bạn tên T không rõ nhân thân lai lịch cho, C mang theo trong người để tự vệ. Cơ quan điều tra đã lập hồ sơ đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn Trảng Bom ra quyết định xử phạt hành chính và tịch thu tiêu hủy theo quy định.

+ Đối với chiếc xe mô tô biển số xxxx- xxxxx hiện chưa xác minh được nguồn gốc và chủ sở hữu, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số: 198/CT/VKS-TB ngày 30 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố bị cáo Lê Viết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố phân tích, đánh giá về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân tốt vì không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Trên cơ sở đó đề nghị Hội đồng xét xừ tuyên phạt bị cáo Lê Viết T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo có số sim 0937.798.935; tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ti phiên tòa, bị cáo Lê Viết T khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng mô tả, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 21 giờ 20 phút ngày 30/6/2019 tại ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, khi Lê Viết T đang tàng trữ trái phép 2,4314 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an xã B phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Lê Viết T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an T trật tự tại địa phương. Việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại về tài sản, là nguồn lây lan nhiều căn bệnh nguy hiểm cho xã hội và là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm khác. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt vì chưa có tiền án tiền sự; bị cáo có 02 con còn nhỏ tuổi; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 01 sim số 0937.798.935 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với số ma túy còn lại sau giám định thu giữ trong vụ án (đã được niêm phong) là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Viết T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Viết T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù , thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2019.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 01 sim số 0937.798.935;

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số: 662/PC09-GĐMT ngày 10/72019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2019).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lê Viết T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 184/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:184/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về