Bản án 184/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 184/2019/HS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 243/2019/TLST-HS ngay 27/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2019/QĐXXST-HS ngày 23/7/2019 đối với bị cáo:

Chung Nhật P sinh năm 1990 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn S, xã Khánh H, huyện Khánh V, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: Thôn Th, phường N, thị xã Ninh H, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chung Ca M sinh năm 1957 và bà Tạ Thị Thu O sinh năm 1960; 02 con.

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân: Bản án số 116/2008/HSST ngày 31/7/2008 của Tòa án nhân dân Quận 6, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/10/2008.

Bị cáo đang bị tạm giam trong vụ án khác. Bị cáo P có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Châu Thị M, sinh năm 1937

Địa chỉ: 101 Chung cư B, phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Bà M vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Chung Ca M, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Thôn S, xã Khánh H, huyện Khánh V, tỉnh Khánh Hòa. Ông M có mặt tại phiên tòa.

2. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Ninh Đ, Ninh Th, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bà B vắng mặt tại phiên tòa.

3. Bà Võ Thị Hồng Nh, sinh năm 1980

Địa chỉ: Tổ 3, B, phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Chỗ ở hiện nay: Thôn Th, phường Ninh Gi, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.

Bà Nh có mặt tại phiên tòa.

4. Ông Lữ Tấn H, sinh năm 1980

Địa chỉ: Tổ dân phố 14, phường N, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông H vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Trần Thị Kim X, sinh năm 1949

Địa chỉ: Số 08 Ph, phường Vạn Th, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Bà X vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 05 giờ 20 phút ngày 14/11/2018, Chung Nhật P đang đỗ xe máy hiệu Sirius, biển kiểm soát 79H1-654.75 trước nhà số 05 Nguyễn Gia Thiều, phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang thì gặp bà Châu Thị M, sinh năm 1937 là người bán vé số đang đi bộ đến mời P mua vé số, P đồng ý rồi cầm tập vé số của bà M gồm 450 tờ vé số mệnh giá 10.000đ/tờ để chọn mua. Trong lúc lựa vé số, P nảy sinh ý định chiếm đoạt số vé số trên của bà M. Do xe máy P điều khiển vẫn đang nổ máy nên P dùng tay trái (cầm tập vé số) đẩy bà M lùi ra sau khoảng 02 bước chân, dùng tay phải tăng ga xe máy và điều khiển xe bỏ chạy về hướng thị xã Ninh Hòa.

Sau khi bị P cướp giật tập vé số, bà M đã đến Công an phường Vạn Thạnh trình báo. Ngày 09/01/2019, Cơ quan công an đã đưa P về trụ sở làm việc, P đã khai nhận toàn bộ hành vi cướp giật tài sản như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 282/HĐĐG ngày 20/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 450 tờ vé số trị giá 4.500.000đ.

Tại bản cáo trạng số 194/CT-VKSNT ngày 27/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để xét xử đối với bị cáo Chung Nhật P về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Chung Nhật P, xử phạt bị cáo P từ 03 đến 04 năm tù giam. Không xem xét giải quyết việc bồi thường về dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: 

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị hại bà Châu Thị M; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị B, ông Lữ Tấn H; người làm chứng bà Trần Thị Kim X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, xét thấy việc vắng mặt của các đương sự có tên trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt các ông, bà Châu Thị M, Nguyễn Thị B, Lữ Tấn H và Trần Thị Kim X theo quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2]. Tại Phiên tòa, bị cáo Chung Nhật P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã có hành vi công khai giật lấy tài sản của bà Châu Thị M (sinh năm 1937) là người già yếu và nhanh chóng tăng ga tẩu thoát. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Cáo trạng số 194/CT-VKSNT ngày 27/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Chung Nhật P về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo Chung Nhật P là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, ngày 31/7/2008, Tòa án nhân dân Quận 6, TP. Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 116/2008/HSST); sau khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản của bà Châu Thị M, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi cướp giật tại thị xã Ninh Hòa. Do vậy, cần thiết phải xử lý bị cáo thật nghiêm khắc, cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phát huy hiệu quả phòng ngừa chung trong xã hội.

Trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường cho bà Châu Thị M 4.500.000đ nên áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4]. Về án phí: Bị cáo Chung Nhật P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, tuyên bố bị cáo Chung Nhật P phạm tội “Cướp giật tài sản”; Xử phạt bị cáo Chung Nhật P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Áp dung Điêu 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Buộc bị cáo Chung Nhật P phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các đương sự có mặt tại Phiên tòa đươc quyên kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; các đương sự vắng mặt tại Phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

343
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 184/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:184/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về