TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 183/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Bà Trương Thị Vân, Kiểm sát viên Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 92/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn và con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXX-ST ngày 03 tháng 7 năm 2020 và các Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐHPT ngày 20/7/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2020/QĐHPT ngày 07/8/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Diệu L (có mặt).
Địa chỉ: Thôn Nghĩa T, Đại N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Minh S (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Nghĩa T, Đại N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn ngày 20 tháng 5 năm 2020 và các lời khai tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Diệu L trình bày:
1. Về hôn nhân:
Bà Nguyễn Thị Diệu L và ông Nguyễn Minh S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã Đại N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam.
Bà L và ông S chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến tháng 4 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, ông S sử dụng ma túy đá về đánh đập tôi và ông cũng không có trách nhiệm gì với gia đình. Bà L bỏ về nhà cha mẹ ruột bà sinh sống. Bà L và ông S sống ly thân nhau từ tháng 6 năm 2019 đến nay.
Nay bà L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông S.
Tại bản tự khai của ông Nguyễn Minh S (bị đơn) ngày 30/6/2020 đối với yêu cầu của nguyên đơn ngày 20 tháng 5 năm 2020, ông S khai nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên trong cuộc sống chung thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng ly thân nhau từ tháng 6 năm 2019 đến nay. Nhưng theo ông hiện nay tình cảm vợ chồng ông vẫn còn nên ông không đồng ý ly hôn.
2. Về con chung:
Bà L và ông S thống nhất khai vợ chồng có một con chung là Nguyễn Nhã Hân, sinh ngày 24/01/2018 (hiện cháu Hân đang sống với bà L). Nay ly hôn bà L và ông S đều có nguyện vọng được nuôi con chung và bà L, ông S không ai yêu cầu đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà L và ông S thống nhất khai không có nên không yêu cầu tòa giải quyết.
* Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu quan điểm:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định pháp luật.
Đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị Diệu L đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định pháp luật. Riêng đối với bị đơn ông Nguyễn Minh S tại phiên tòa hôm nay, ông S vắng mặt, không có lý do là không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự .
Về nội dung vụ án: Xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà L và ông S đã thật sự trầm trọng, tình yêu không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà L, xử cho bà L được ly hôn với ông S.
Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nguyện vọng con chung của bà L theo quy định pháp luật.
Về quan hệ tài sản, nợ chung: Bà L và ông S khai không có nên không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
*Về tố tụng:
Tại hồ sơ vụ án Ông Nguyễn Minh S đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
*Về nội dung:
1. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông S là hợp pháp. Quá trình chung sống do hai bên không đồng nhất quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã kiên trì hòa giải nhưng bà L vẫn kiên quyết ly hôn. Bà L và ông S không còn chung sống với nhau từ tháng 6 năm 2019 đến nay. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông S đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của bà L là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
2. Về con chung: Xét nguyện vọng nuôi con chung của bà L và ông S thì thấy: Trong thời gian chung sống vợ chồng có một con chung là Nguyễn Nhã Hân, sinh ngày 24/01/2018. Nay ly hôn bà L và ông S đều có nguyện vọng được nuôi con chung. HĐXX xét thấy, cháu Hân hiện nay còn nhỏ nên cháu cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ. Hơn nữa, bà L cũng cũng có thu nhập ổn định nên đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Hân. Căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 HĐXX chấp nhận nguyện vọng của bà L là được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cháu Hân là phù hợp. Bà L không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét. HĐXX không chấp nhận nguyện vọng nuôi con chung của ông S là phù hợp với thực tế và đúng quy định pháp luật.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà L và anh ông cùng khai không có nên HĐXX không xét.
4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 147, 203, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 235, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự:
Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình:
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Diệu L đối với ông Nguyễn Minh S.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị Diệu L được ly hôn với ông Nguyễn Minh S.
2. Về con chung: Tuyên giao con chung Nguyễn Nhã Hân, sinh ngày 24 tháng 01 năm 2018 cho bà Nguyễn Thị Diệu L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành. Bà L không yêu cầu ông S đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông S có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chưa thành niên khi cần thiết đôi bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con vá mức cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có 4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0003628 ngày 20 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.
- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày niêm yết bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 183/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 183/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Giang - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về