Bản án 183/2019/HSST ngày 19/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 183/2019/HSST NGÀY 19/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 185/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Phùng V. Giới tính: Nam. Sinh năm: 1990. Tên gọi khác: Không. Nơi ĐKNKTT: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Nơi ở (nhà thuê): số x ngõ y phố D, phường E, quận F, Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Dao. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 11/12. Họ tên Cha: Phùng Hồng Q, sinh năm 1966. Họ tên Mẹ: Dương Thị D, sinh năm 1966. Gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1992.

Nhân thân:

- Ngày 09/5/2018, Tòa án phúc thẩm TAND tỉnh Tuyên Quang áp dụng Điều 138 khoản 1 BLHS năm 1999, xử phạt 04 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, (Án sơ thẩm, số 50/2007/HSST của TAND huyện C và Án phúc thẩm số 30/2008/HSPT của TAND tỉnh Tuyên Quang) đã nộp án phí ngày 11/3/2008 – Đã được xóa án tích.

- Ngày 08/5/2008, Tòa án ND huyện C, tỉnh Tuyên Quang áp dụng Điều 139 khoản 1 BLHS năm 1999, xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, (Án số: 15/2008/HSST) trị giá tài sản chiếm đoạt 1.230.000 đồng – Đã được xóa án tích.

- Ngày 24/7/2012, Tòa án ND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ áp dụng Điều 194 khoản 1 BLHS năm 1999, xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (Án số: 27/2012/HSST), chấp hành xong hình phạt ngày 06/3/2015 – Đã được xóa án tích.

Tm giữ: 06/5/2019 Tạm giam: 15/5/2019.

Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thu H. Sinh năm 1992.

HKTT: tổ x, phường G, thành phố H.

(Chị H có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 10 phút ngày 05/5/2019, tổ công tác Y8/141, Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại ngã tư phố Ngô Quyền – phố Lý Thường Kiệt, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội phát hiện Phùng V điều khiển xe máy Honda SH màu đỏ đen, BKS: 22B2-….. chở phía sau Nguyễn Thị Thu H (sinh năm: 1992, HKTT: phường I – thành phố H – tỉnh Hoà Bình) không đội mũ bảo hiểm nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện bên trong cốp xe máy có 01 túi da nhãn hiệu LV(kích thước 20x25cm) bên trong có chứa 01 túi nilông màu trắng (kích thước 3x4cm) đựng tinh thể màu trắng, ngay tại chỗ V khai nhận đó là ma tuý tổng hợp. Qua kiểm tra người Nguyễn Thị Thu H không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma tuý. Tổ công tác tiến hành tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở Công an phường Hàng Bài để tiếp tục làm rõ.

Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Phùng V: 01 xe máy Honda SH màu đỏ đen, BKS: 22B2-….., số khung: 102xxx, số máy: 0055xxx; 01 túi da màu đen (kích thước 20x25cm) nhãn hiệu LV; 01 điện thoại Nokia màu đen, sim số: 0704.xxx.xxx; 01 điện thoại iPhone 6 màu bạc, sim số: 0907.xxx.xxx; 01 điện thoại iPhone X plus màu vàng, sim số: 0917.xxx.xxx.

Thu giữ của Nguyễn Thị Thu H: 01 điện thoại iPhone X màu trắng, sim số: 0989xxxxxx.

Tại bản giám định số 2890/KLGĐ-PC09 ngày 14/5/2019, của Phòng KTHS - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (thu giữ của Phùng V) là ma tuý loại Ketamine, khối lượng: 1,014 gam.

Tại Cơ quan Công an, khi mới bị phát hiện bắt giữ Phùng V khai nhận cất giấu 01 túi nilông đựng ma tuý ke nhằm mục đích để sử dụng. Tuy nhiên ngay sau đó, V đã thay đổi lời khai và khai nhận 01 túi nilông đựng ma tuý ke, cất giấu trong chiếc túi da để trong cốp xe máy nhằm mục đích để bán thu lời. Về nguồn gốc túi ma tuý trên, V khai nhận khoảng 22 giờ ngày 02/5/2019 đi đến khu vực chợ Cửa Nam – quận Hoàn Kiếm mua của người đàn ông tên thường gọi là T M (không rõ nhân thân) 01 túi nilông đựng ma tuý ke với giá 3.000.000 đồng, V trả trước 500.000 đồng, còn nợ T M 2.500.000 đồng. Sau khi có ma tuý, V mang đến quán Bar Infinity số 45 phố Hàng Bài – quận Hoàn Kiếm để cùng sử dụng với bạn bè, do không sử dụng hết nên V cất giấu vào chiếc túi xách nhãn hiệu LV của mình để ai hỏi mua sẽ bán kiếm lời. Đến trưa ngày 05/5/2019, V chở vợ là Nguyễn Thị Thu H đi lễ ở Đền Gềnh – quận Long Biên, rồi đi về đến khu vực ngã tư phố Ngô Quyền – phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm thì bị tổ công tác Y8/141 Công an thành phố Hà Nội kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. V cất giấu túi ma tuý ke trong cốp xe máy, H không biết. Ngoài ra, V khai nhận đã nhiều lần bán ma túy tổng hợp, cụ thể như sau:

- Ngày 02/5/2019, V được người anh em quen biết xã hội tên T (không rõ nhân thân) bảo đưa cho Đ (bạn của T) 18 viên ma tuý kẹo. V đồng ý và mang 18 viên ma tuý kẹo giao cho Đ tại khu vực phố Đại Cồ Việt, quận Hai Bà Trưng và không lấy tiền, do V nghĩ là anh em với T nên không lấy tiền.

- Khoảng 22 giờ ngày 03/5/2019, một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân) hỏi mua của V 03 viên ma tuý kẹo và 01 chỉ ma tuý ke, V đồng ý bán với giá 4.500.000 đồng. Sau đó V mua số lượng ma tuý trên của đối tượng T M với giá 3.450.000 đồng, rồi mang đến phố Phó Đức Chính, quận Ba Đình bán cho H, V thu lời bất chính số tiền 1.050.000 đồng.

- Khoảng 02h ngày 05/5/2019, một người phụ nữ tên H (không rõ nhân thân) hỏi mua của V ma tuý kẹo, nhưng do V không còn ma tuý kẹo nữa nên đã không bán được cho H.

Đến ngày 01/7/2019, V thay đổi lời khai và không thừa nhận đã bán ma tuý cho các đối tượng Đ (bạn của T) và H như nêu trên. V chỉ thừa nhận hành vi cất giấu 01 túi nilông đựng ma tuý ke trong chiếc túi xách để ở cốp xe máy nhằm mục đích ai hỏi mua thì bán thu lời bất chính, V dự định sẽ bán với giá 1.500.000 đồng. Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, cũng như lời khai nhận của V không nhớ rõ địa chỉ trao đổi mua bán, không nhớ số điện thoại của các đối tượng tên Đ và H nên chưa đủ cơ sở xác định V có hành vi mua bán ma túy nhiều lần.

Về số tài sản bị thu giữ gồm 01 túi da màu đen (kích thước 20x25cm) nhãn hiệu LV; 01 điện thoại Nokia màu đen, sim số: 0704.xxx.xxx; 01 điện thoại iPhone 6 màu bạc, sim số: 0907.xxx.xxx; 01 điện thoại iPhone X plus màu vàng, sim số: 0917.xxx.xxx là tài sản của V mua để sử dụng cho bản thân.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thu H khai phù hợp với lời khai trên của Phùng V. H không biết V để may túy trong cốp xe máy nhằm mục đích bán thu lời. Về chiếc điện thoại iPhone X màu trắng, sim số: 0989.xxx.xxx là tài sản của H để sử dụng liên lạc với gia đình.

Đi với chiếc xe máy Honda SH màu đỏ đen, BKS: 22B2-….., số khung: 102xxx, số máy: 0055xxx, quá trình điều tra xác định đứng tên đăng ký xe là Phùng V, nhưng là tài sản chung của hai vợ chồng V. Tài liệu điều tra xác định Nguyễn Thị Thu H không liên quan đến hành vi bán ma tuý của V, nên Cơ quan điều tra không xử lý và trao trả cho H chiếc điện thoại iPhone X màu trắng, sim số: 0989.xxx.xxx cùng chiếc xe máy Honda SH màu đỏ đen, BKS: 22B2-…...

Đi với người đàn ông tên T M bán ma túy cho V, quá trình điều tra V khai không biết rõ nhân thân, số điện thoại, nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 179/CT-VKS ngày 19 tháng 8 năm 2019 đã truy tố Phùng V tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận như khai tại Cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ Luật Hình sự là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ quyền công tố sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đã ban hành, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 Điều 251 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Đề nghị tịch thu sung công quỹ tài sản đã thu giữ của bị cáo là 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại iPhone 6 màu bạc,; 01 điện thoại iPhone X plus màu vàng. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 túi da màu đen (kích thước 20x25cm) nhãn hiệu LV, 01 sim số 0704.xxx.xxx, 01 sim số 0907.xxx.xxx, 01 sim số 0917.xxx.xxx và số ma túy đã thu giữ.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, xin hứa không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Hi 15 giờ 10 phút ngày 05/5/2019, tại khu vực ngã tư phố Ngô Quyền – phố Lý Thường Kiệt, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, tổ công tác Y8/141 Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang Phùng V đang có hành vi cất giấu 01 túi nilông đựng ma tuý loại Ketamine, có khối lượng: 1,014 gam nhằm mục đích để bán thu lời bất chính.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét nhân thân bị cáo: bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của bị cáo là vi phạm pháp luật hình sự

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Không có.

[6] Về quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hơn nữa, bị cáo được giáo dục cải tạo, giúp bị cáo nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

[6.1] Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 06/5/2019 đến ngày 18/9/2019 đưc trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

[7] Về hình phạt phụ bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về Biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu huỷ 1,014 gam Ketamine, 01 túi da màu đen (kích thước 20x25cm) nhãn hiệu LV, 01 sim số 0704.xxx.xxx, 01 sim số 0907.xxx.xxx, 01 sim số 0917.xxx.xxx. Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại iPhone 6 màu bạc; 01 điện thoại iPhone X plus màu vàng.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Án phí hình sự: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: PHÙNG V phạm Tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

2. Áp dụng:

- Điều 251 khoản 1; Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015;

- Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

3. Xử phạt: PHÙNG V 36 (BA MƯƠI SÁU) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/5/2019.

4. Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy: mt phong bì niêm phong trên các mép có chữ ký của Phùng V, cán bộ Phương Quốc H và giám định viên Nguyễn Văn H1 và hình dấu Công an phường Hàng Bài, bên trong có một túi ni lông màu trắng kích thước 3x4 cm chứa tinh thể màu trắng có khối lượng 0,835 gam ma túy loại Ketamin (do PC09 thu mẫu giám định là 0,179 gam trong tổng số 1,014 gam, còn lại 0,835 gam ma túy loại Ketamin).

+ Tịch thu tiêu hủy 01 túi da màu đen (kích thước 20x25cm) nhãn hiệu LV, 01 sim số 0704.xxx.xxx, 01 sim số 0907.xxx.xxx, 01 sim số 0917.xxx.xxx.

+ Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại Nokia màu đen; 01 điện thoại iPhone 6 màu bạc; 01 điện thoại iPhone X plus màu vàng.

Số vật chứng trên hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 13/9/2019.

5. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2019/HSST ngày 19/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:183/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về