Bản án 183/2019/HSST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 183/2019/HSST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11/9/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 192/2019/HSST ngày 20 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2019/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trường S, sinh năm 1989; Nơi ĐKNKTT và hiện trú tại: xã N, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Nguyễn Văn V, sinh năm 1966; Con bà: Ngô Thị A, sinh năm 1967; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lê Thị H, sinh năm 1990; Có 02 con (lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2018).

Tiền án, tiền sự: không.

Danh chỉ bản số 277 lập ngày 04/6/2019 tại Công an quận Bắc Từ Liêm;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại giam số 01- Công an thành phố Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1998; HKTT: xã M, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định - Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Đức T1, sinh năm 1999; HKTT: xã L, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định - Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 30 phút, ngày 24/5/2019, Nguyễn Trường S đi xe khách từ Thanh Hóa ra Hà Nội rồi hẹn anh họ là Nguyễn Văn Tuấn (SN: 1986; HKTT: Thôn Tân Bình 1, Thiệu Ngọc, Thiệu Hóa, Thanh Hóa) sẽ gặp nhau tại Hà Nội. Sau khi gặp nhau, S và Tuấn đến thuê phòng 101 nhà nghỉ “Minh Quân 2” tại Phường Phúc Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để nghỉ ngơi. Đến khoảng 00 giờ 30 phút, ngày 25/5/2019, khi S đang ngủ thì Tuấn gọi S dậy và rủ đi ra ngoài gặp bạn của Tuấn, S đồng ý. Tuấn đi bộ ra trước còn S đi phía sau, do mải dùng điện thoại không để ý nên Tuấn đi đâu S không biết. Sau đó S một mình đi bộ lang thang vào khu vực TDP Văn Trì 4, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Khi đi đến khu vực ngõ 53, phố Ngọa Long, Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, S thấy một căn nhà đang xây dựng không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này S đi vào tầng một ngôi nhà tìm tài sản trộm cắp nhưng không có gì nên tiếp tục đi lên tầng hai. Tại đây, S thấy có dàn giáo bắc cao ngang tầng ba ngôi nhà số 73, ngõ 53, Ngọa Long, Minh Khai, Hà Nội nên đã trèo lên dàn giáo để đi sang tầng ba của căn nhà trên thì phát hiện nhà không có cửa. Khi S đi vào trong phòng ngủ tại tầng ba thì thấy anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Đức T1 đang nằm ngủ trên giường, phía đầu gường để 02 chiếc điện thoại (Iphone 5 và Iphone 6 plus), S tiến lại gần và lấy trộm hai chiếc điện thoại trên cất vào hai túi quần đang mặc rồi đi ra ngoài theo đường trước đó đã vào. Khi S đang đi bộ để trở về nhà nghỉ “Minh Quân 2” thì bị tổ công tác công an phường Minh Khai kiểm tra hành chính phát hiện và bắt giữ cùng tang vật như đã nêu trên.

Vt chứng thu giữ:

- 01(một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 plus màu xám đen lắp số sim 0973846525 có số Imei 3520044076181124

- 01(một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 5 màu trắng có số imei 013554008850506

- 01(một) điện thoại di động kiểu dáng Redmi màu xanh đen lắp số sim 0362316254, có số imei 864493040118202,864493040368203.

Kết luận định giá tài sản số 72 ngày 3/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - quận Bắc Từ Liêm kết luận: 01 chiếc điện thoại iphone 6 plus màu xám đen, số imei: 3520044076181124 trị giá: 3.000.000 đồng; 01 chiếc điện thoại Iphone 5 màu trắng, số imei 013554008850506 trị giá: 500.000 đồng; Tổng trị giá các tài sản trên là: 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại cơ quan điều tra: Nguyễn Trường S khai nhận hành vi của mình như trên.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức T1 không có yêu cầu về dân sự.

Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại di động kiểu dáng Redmi màu xanh đen, lắp số sim 0362316254 là tài sản hợp pháp của Nguyễn Trường S.

01(một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 plus màu xám đen lắp số sim 0973846525 có số Imei 3520044076181124 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Đức Tuyến; 01(một) điện thoại di động kiểu dáng Iphone 5 màu trắng có số imei 013554008850506 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Tấn.

Tại bản cáo trạng số 167/CT-VKSBTL ngày 12/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố Nguyễn Trường S về tội: “Trộm cắp tài sản“ theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai như đã khai tại cơ quan điều tra và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm giữ nguyên quyết định của bản cáo trạng đã truy tố, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Trường S từ 08 tháng đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 24 tháng. Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Nguyễn Trường S khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra,vật chứng được thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác.

Hi đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ 30 phút, ngày 25/5/2019, tại số nhà 73, ngõ 53 phố Ngọa Long, phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Trường S đã có hành vi trộm cắp 02 chiếc điện thoại Iphone 6 plus và Iphone 5 tổng trị giá là 3.500.000 đồng của anh Nguyễn Đức T1 và Nguyễn Văn T. Hành vi Nguyễn Trường S lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại như trên đã phạm tội“Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự xã hội. Nên cần áp dụng hình phạt nghiêm đối với bị cáo và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm,thành phố Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, nên hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.

[5]. Vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ:

- 01 điện thoại di dộng kiểu dáng iphone 6 plus màu xám đen lắp sim số 0973846525, có số imei 3520044076181124 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Đức Tuyến cần trả lại cho anh T1.

- 01 điện thoại di động kiểu dáng iphone 5 màu trắng, có số imei 013554008850506 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn T cần trả lại cho anh Tấn.

- 01 điện thoại di động kiểu dáng Redmi màu xanh đen lắp sim số 0362316254, có số imei 864493040118202, 864493040368203 là tài sản hợp pháp của bị cáo cần trả lại cho bị cáo.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều136, Điều 328, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường S 08 (Tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (Mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Trường S, nếu bị cáo Nguyễn Trường S không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao Nguyễn Trường S cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4. Vật chứng:

-Trả lại cho anh Nguyễn Đức T1 01 điện thoại di dộng kiểu dáng iphone 6 plus màu xám đen lắp sim số 0973846525, có số imei 3520044076181124 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại cho anh Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động kiểu dáng iphone 5 màu trắng, có số imei 013554008850506 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Trường S 01 điện thoại di động kiểu dáng Redmi màu xanh đen lắp sim số 0362316254, có số imei 864493040118202, 864493040368203 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 206/19ngày 12/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm và Cơ quan thi hành án quận Bắc Từ Liêm).

5.Về án phí và quyền kháng cáo:

- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2019/HSST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:183/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về