Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 26/08/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 182/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 522/2017/TLST-HNGĐ ngày 07/6/2017 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 230/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/7/2017 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 93/2017/QĐST-HNGĐ ngày 10/8/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trịnh Ngọc C, sinh năm 1986 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Minh K, sinh năm 1982 (vắng mặt)

Cả hai cùng địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện D, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/6/2017 và tại phiên Tòa, nguyên đơn bà Trịnh Ngọc C trình bày tóm tác như sau:

Bà và ông Nguyễn Minh K cưới nhau năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện D, tỉnh Long An. Thời gian đầu vợ chồng sống chung hạnh phúc cho đến năm2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã. Ông K ăn chơi, không quan tâm vợ con. Bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông K vẫn không thay đổi tính tình. Ông bà vẫn sống chung nhà nhưng việc ai người đó làm và sau đó ly thân từ tháng 01/2017cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và cũng không thể hàn gắn nên bà yêucầu Tòa án giải quyết cho bà xin ly hôn với ông K.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Cả hai có 02 con chung tên Nguyễn Văn C1, sinh ngày 05/12/2004 và Nguyễn Ngọc Tiểu T, sinh ngày 12/12/2012. Khi ly hôn, bà xin được quyền nuôi hai con, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Minh K trình bày: Ông xác nhận lời trình bày của bà C về thời gian, điều kiện kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung như bà C trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian gần đây hay xảy ra mâu thuẫn do vấn đề tài chính trong gia đình. Vợ chồng vẫn còn sống chung nhà, chưa ly thân với nhau. Nay bà C xin ly hôn, ông không đồng ý, ông xin hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để cùng lo cho con chung.

Con chung: Nguyễn Văn C1, sinh ngày 05/12/2004 và Nguyễn Ngọc Tiểu T, sinh ngày 12/12/2012. Nếu Tòa án cho ly hôn, ông xin giao hai con cho bà C nuôi, ông không cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở trình bày của đơn sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Minh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt. Căn cứ tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn

[2] Về hôn nhân: Bà C và ông K cưới nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã Y, huyện D, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/12/2004 (số223/2004, quyển số 02/2004) nên quan hệ hôn nhân của bà C và ông K được pháp luật thừa nhận là hợp pháp từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Bà C cho rằng cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc là do ông K ham mê cờ bạc, không quan tâm chăm sóc vợ con nên mới xin ly hôn. Ông K được tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án cũng như tại biên bản tự khai của ông K, ông không đồng ý ly hôn, ông còn thương vợ con muốn hàn gắn với bà C nhưng ông không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho ông mặc dù ông đã nhận được các văn bản của Tòa án, điều này chứng tỏ rằng ông không còn quan tâm đến vợ con nên lời trình bày của ông K không được xem xét. Ngoài ra, tại phiên tòa bà C xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông K và cương quyết ly hôn. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận theo đơn yêu cầu của bà C đối với ông K.

[3] Về quyền nuôi con chung: Khi ly hôn, bà C yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung là Nguyễn Văn C1, sinh ngày 05/12/2004 và Nguyễn Ngọc Tiểu T, sinh ngày 12/12/2012, và không yêu cầu ông K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con chung, vấn đề nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn giữa bà C và ông K đã tự nguyện thỏa thuận với nhau. Xét sự thỏa thuận nuôi con chung và cấp dưỡng giữa bà C và ông K là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, cháu C1 trên 7 tuổi có nguyện vọng sống với bà C nên ghi nhận sự thỏa thuận giữa bà Trịnh Ngọc C với ông Nguyễn Minh K về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

[4] Tài sản chung: Bà Trịnh Ngọc C và ông Nguyễn Minh K thống nhất không có nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét đến.

 [5] Về nợ chung: Bà Trịnh Ngọc C và ông Nguyễn Minh K thống nhất không có nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét đến.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Trịnh Ngọc C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28 Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 3Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 và Điều 86 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Ngọc C đối với ông Nguyễn Minh K. Bà Trịnh Ngọc C được ly hôn với ông Nguyễn Minh K.

Về quyền nuôi con chung: Bà Trịnh Ngọc C được quyền tiếp tục nuôi hai con tên Nguyễn Văn C1, sinh ngày 05/12/2004 và Nguyễn Ngọc Tiểu T, sinh ngày 12/12/2012, ông K không phải cấp dưỡng nuôi con vì bà C không yêu cầu. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Bà Trịnh Ngọc C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, sung công quỹ nhà nước, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0000650 ngày 06/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2017/HNGĐ-ST ngày 26/08/2017 về ly hôn

Số hiệu:182/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về