Bản án 18/2021/HSST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN N DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 18/2021/HSST NGÀY 12/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án N dân thị xã L, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

1. LÊ VĂN L (Tên gọi khác: Bảy L); Sinh năm: 1990, tại: Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường PH, thành phố PT, tình Bình Thuận; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Lao động biển; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông: Lê Văn C, sinh năm: 1959 và bà Lâm Thị H, sinh năm: 1959; Vợ, con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 26/11/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã L. (Có mặt)

2. HỒ PHI N (Tên gọi khác: L); Sinh năm: 1988, tại: Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 2, phường PH, thành phố PT, tỉnh Bình Thuận; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động biển; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông: Hồ Phi H, sinh năm: 1969 và bà Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm: 1966; Vợ, con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 26/11/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã L. (Có mặt)

* Người làm chứng: Bùi Xuân D, sinh năm: 1964; Nơi cư trú: Khu phố 1, phường PH, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 26/11/2020, Lê Văn L rủ Hồ Phi N bắt xe buýt từ Tp. PT đến thị xã L để mua ma túy về sử dụng, đến thị xã L, L và N đi đò từ phường Phước Hội qua khu vực Xóm Sình thuộc phường Bình Tân. Khi đến khu vực Xóm Sình, L đưa số tiền 2.400.000 đồng cho N để đi mua ma túy, N cầm tiền, đi bộ được khoảng 20 mét thì gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy với giá 2.400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N quay lại đưa bịch ma túy cho L cất vào túi áo khoác màu đen L đang mặc. Sau đó, cả hai đi đò về lại khu vực phường Phước Hội, khi vào đến bờ, N nói L đưa bịch ma túy để lấy một ít ra sử dụng. Sau khi sử dụng, N đưa lại bịch ma túy cho L cất giữ, rồi cả hai đi bộ ra đường Lê Lợi thuộc khu phố 2, phường Phước Hội, thị xã L để chờ đón xe buýt về lại Tp. PT, thì bị Công an phường Phước Hội kiểm tra, phát hiện bên trong túi áo khoác màu đen L đang mặc có 01 gói giấy màu vàng, bên trong có 01 bịch nilon màu trắng chứa chất dạng rắn, màu trắng. Lê Văn L khai nhận đó là bịch ma túy dạng Heroine mà L nhờ N mua trước đó tại khu vực xóm Sình. Ngoài ra, Công an còn thu giữ trong quần lót của Hồ Phi N01 bơm kim tiêm, N khai nhận đó là kim tiêm mà N dùng để sử dụng ma túy trước đó. Sau đó, Công an phường Phước Hội đã tiến hành đưa các đối tượng về trụ sở để lập biên bản, thu giữ tang vật và ban giao hồ sơ cho Cơ quan CSĐT Công an thị xã L giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận giám định số 1308/KLGĐ-PC09 ngày 02/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 1,7698 gam; là Heroine.

Vật chứng thu giữ, gồm: 01 áo khoác màu đen (thu giữ của Lê Văn L); 01 bơm kim tiêm kích thước 0,5 x 11 cm (thu giữ của Hồ Phi N); tang vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1308. Các vật chứng trên hiện Cơ quan CSĐT đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L quản lý.

Tại bản cáo trạng số: 21/CT-VKS ngày 17/02/2021 của Viện kiểm sát N dân thị xã L truy tố các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N đều về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát N dân thị xã L giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N và đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N, đều phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý";

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Phạt: Bị cáo Lê Văn L, mức án từ 24 đến 30 tháng tù Bị cáo Hồ Phi N, mức án từ 18 đến 24 tháng tù

* Về biện pháp tư pháp; Áp dụng: Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 Bộ luật hình sụ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên: Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì số 1308 của Phòng kỹ thuật hình sụ Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bơm kim tiêm kích thước (0,5 x 11)cm (thu giữ của Hồ Phi N) và 01 áo khoác màu đen (thu giữ của Lê Văn L).

- Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N đều khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận cáo trạng của VKSND thị xã L truy tố là hoàn toàn đúng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.

- Các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N đều không có ý kiến cũng như tranh luận gì đối với quan điểm của đại diện VKSND thị xã L.

- Các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N nói lời nói sau cùng: Các bị cáo thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên; Viện kiểm sát N dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Lời khai của các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N tại phiên tòa đều phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được thấm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/11/2020, tại đường Lê Lợi thuộc khu phố 2, phường Phước Hội, thị xã L, các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thì bị lực lượng công an phường Phước Hội kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ bên trong túi áo khoác màu đen mà L đang mặc 01 gói giấy màu vàng, bên trong có 01 bịch nylon màu trắng chứa chất dạng rắn, màu tráng, L khai nhận đó là bịch ma túy dạng Heroine, L nhờ N mua tại khu vực xóm Sình trước đó; thu giữ trong quần lót của N 01 bơm kim tiêm, N khai nhận đó là kim tiêm của N dùng để sử dụng ma túy.

Cơ quan CSĐT công an thị xã L đã gửi giám định số ma tuý thu được của các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N, tại Bản kết luận giám định số: 1308/KLGĐ- PC09 ngày 02/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: "Mẫu M gửi giám định có khối lượng 1,7698 gam, là Heroine".

Hành vi trên của các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát N dân thị xã L truy tố các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các bị cáo đều là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, để nhận thức rõ ma tuý là chất gây nghiện, tệ nạn ma túy không những xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, mà còn là một trong những nguyên N nảy sinh ra nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện, ăn chơi đua đòi, mà các bị cáo đã sa vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, vào sáng ngày 26/11/2020, L đã rủ N cùng đi xe buýt vào thị xã L để mua ma túy sử dụng, thì N đồng ý. Khi đến khu vực Xóm Sình thuộc phường Bình Tân, thì L đưa tiền để cho N đi mua ma túy, N cầm tiền rồi đến gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy với giá 2.400.000 đồng. Sau đó quay lại đưa bịch ma túy cho L cất giấu vào túi áo khoác, khi cả hai đang đứng đón xe buýt để về lại PT, thì bị công an phường Phước Hội bắt quả tang bắt quả tang như đã nêu trên.

Hành vi phạm tội của các bị cáo L và N là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự xem thường pháp luật, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Đánh giá vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy, đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo L đóng vai trò chính, là người khởi xướng, rủ rê bị cáo N đi mua ma túy về sử dụng, đưa tiền để N đi mua ma túy và trực tiếp cất giấu số ma túy trong người. Đối với bị cáo N là người thực hiện hành tích cực, trực tiếp đi mua ma túy, rồi giao lại cho L cất giấu và được L cho ma túy sử dụng. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục các bị cáo, cũng như để các bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Đối với đối tượng bán ma tuý cho các bị cáo, các bị cáo khai không rõ N thân, lai lịch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L tiếp tục xác minh, làm rõ nếu đủ căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; N thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với gói giấy màu vàng, gói nylon và 1,4402 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1308 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 bơm kim tiêm kích thước (0,5 X 1 l)cm; 01 áo khoác màu đen. Xét, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N, đều phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/11/2020.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Phi N 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/11/2020.

[2] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì được niêm phong số 1308 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 áo khoác màu đen; 01 bơm kim tiêm kích thước (0,5 X 11)cm. Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L, có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2021 giữa Cơ quan CSĐT công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L.

[3] Về án phí: Các bị cáo Lê Văn L và Hồ Phi N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HSST ngày 12/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:18/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về