Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 09/2021/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị T (tên gọi khác: Không); giới tính: Nữ, sinh năm 1984 tại Ninh Bình; Nơi ĐKHKTT:, phố B, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở, phố H, đường 30/6, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Thế N1 và bà: Bùi Thị T1; Chồng: Đoàn Văn C; Con có 03 con; Tiền án: Tại bản án số 145/2019/HSST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”đã chấp hành xong ngày 16/9/2020;Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn“cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 05/01/2021 cho đến nay.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Bùi Văn L, sinh năm 1979; địa chỉ: phố H, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

- Người làm chứng: Anh Vũ Văn L2; sinh năm 1984;

Tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa; người làm chứng vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị T có một tiền án về tội “ Đánh bạc” chưa được xóa án tích và hiện đang làm đại lý cho Công ty xổ số kiến thiết Ninh Bình, hàng ngày T kê bàn xổ số ở khu vực phố H, phường N, thành phố Ninh Bình để bán xổ số nhà nước. Lợi dụng vào việc bán xổ số cho nhà nước, dựa vào kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày, T đã trực tiếp ghi những số lô, số đề cho Bùi Văn L sinh năm 1979 trú tại phố H, phường N, thành phố Ninh Bình tại bàn ghi xổ số sau đó T tổng hợp thành bảng rồi gửi qua tin nhắn cho một người đàn ông có tên là Nam (không rõ địa chỉ) để được hưởng phần trăm hoa hồng. Hành vi đánh bạc bằng hình thức “chơi số lô, số đề” được thua bằng tiền của Nguyễn Thị T và Bùi Văn L được thống nhất cách chơi như sau:

Đối với “số đề” loại “02 số” người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ (từ cặp số 00 đến cặp số 99) ghi trong bảng đề. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu là tùy người chơi. Việc đối chiếu kết quả được các đối tượng thỏa thuận thống nhất: Lấy hai số cuối của giải đặc biệt của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu cặp số của người chơi trùng với hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi “trúng đề”. Trong trường hợp này, T sẽ thanh toán với Nam để lấy tiền trả cho người “trúng đề” với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp tám mươi lần số tiền người “trúng đề” đã bỏ ra mua các cặp số. Ngược lại, nếu không có người chơi nào“trúng đề” thì Nam được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các cặp số trong các bảng đề do T chuyển. Đối với số đề T nhận và chuyển cho Nam cứ 10.000 đồng ghi số đề T chuyển cho Nam 8.700 đồng, T hưởng tiền hoa hồng 1.300 đồng.

Đối với“lô Ninh Bình” thì người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ từ cặp số 00 đến cặp số 99 ghi trong “bảng lô”. Giá trị mỗi cặp số là 20.000 đồng. Việc đối chiếu thanh toán được Nguyễn Thị T thỏa thuận thống nhất với những người chơi là: Lấy hai số cuối của các giải trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu cặp số của người chơi trùng khớp với hai số cuối của một hoặc các giải thưởng trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc hôm đó thì người chơi“trúng lô”. Cứ 20.000 đồng người chơi“số lô Ninh Bình” bỏ tiền ra mua một cặp số được tính với nhau là 01 điểm, nếu trùng khớp với một giải thì được nhận 70.000 đồng, trùng khớp hai giải thì được 140.000 đồng. Trong trường hợp này T sẽ thanh toán với Nam để lấy tiền thanh toán cho những người chơi trúng thưởng. Ngược lại, nếu không có người chơi nào“trúng lô” thì Nam được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các cặp số trong các bảng lô do T chuyển. Cứ mỗi điểm lô Ninh Bình, T chuyển cho Nam 19.000 đồng còn lại T được hưởng 1.000 đồng/ 1 điểm.

Từ“nguyên tắc,hình thức”chơi “Số lô,số đề” như trên, ngày 16/12/2020 Nguyễn Thị T đã bán số lô, số đề cho Bùi Văn L cụ thể như sau:

Khoảng 17giờ 50 phút ngày 16/12/2020, Bùi Văn L đến bàn xổ số mua của Nguyễn Thị T “số lô Ninh Bình ” gồm: số 08, 07 mỗi con 5 điểm với tổng số tiền là 200.000 đồng; “ số đề ” 08 là 20.000 đồng. Tổng số tiền L mua số lô, số đề là 220.000 đồng. T ghi những số lô, số đề L mua vào 01 tờ cáp đề bằng giấy màu đỏ trắng kích thước ( 10x7) cm và ký tên vào tờ cáp đề rồi đưa cho L. L cầm tờ cáp đề cất vào túi quần bên phải và trả cho T số tiền 220.000 đồng thì bị Tổ công tác Công an phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình phát hiện bắt giữ. Thu giữ trên tay của T số tiền 220.000 đồng và thu giữ trong túi quần của L 01 tờ cáp đề bằng giấy màu đỏ trắng kích thước ( 10x7) cm trên cáp lô đề có ghi các số lô, số đề L vừa mua của T. Do chưa có kết quả xổ số mở thưởng trong ngày đã bị phát hiện bắt quả tang nên tổng số tiền T chịu trách nhiệm cho lần đánh bạc này là 220.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 20/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố đối với Nguyễn Thị T về tội “ Đánh bạc”, theo khoản 1, khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1,khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị T. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ thời hạn tính từ ngày UBND phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Nguyễn Thị T cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Khấu trừ 5% đến 10% thu nhập của bị cáo Nguyễn Thị T trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị T 10.000.000đ đến 15.000.000đ Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 - Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 220.000 đồng sử dụng để đánh bạc thu giữ của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án dưới hình thức ghi lô đề.

- Bị cáo Nguyễn Thị T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là đúng với trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: bị cáo Nguyễn Thị T có một tiền án về tội Đánh bạc chưa được xóa án tích. Khoảng 17giờ 50 phút ngày 16/12/2020 tại khu vực phố H, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, bị cáo Nguyễn Thị T đã có hành vi bán các số lô, số đề cho Bùi Văn L với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 220.000 đồng bị phát hiện bắt giữ.

Tại bản án số 145/2019/HSST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”đã chấp hành xong ngày 16/9/2020. Chưa được xóa án tích mà có vi phạm. Do đó Cáo trạng số 11/CT - VKS ngày 20/01/2021 truy tố bị cáo Nguyễn Thị T theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Điều 321: Tội đánh bạc 1.Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000đ đến dưới 50.000.000đ hoặc dưới 5.000.000đ nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 20.000.000đ đến 100.000.000đ, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

………………………………..

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân là nguyên nhân gây nên nhiều tội phạm khác. Do vậy đưa bị cáo ra truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là cần thiết, nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị T quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, chồng bị cáo bị viêm cầu thận; không công việc ổn định; con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, ngoài ra bị cáo có bố đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì do đó cần cho bị cáo hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự -Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, vị trí vai trò của bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên chỉ cần áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ; áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền và khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ giáo dục bị cáo thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Đối với số tiền 220.000 đồng sử dụng để đánh bạc thu giữ của bị cáo dưới hình thức đánh lô, đề, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án sử dụng để đánh bạc đây là phương tiện, công cụ dùng vào việc phạm tội, do vậy cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu số tiền trên của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án xung vào ngân sách Nhà Nước.

- Đối với 01 cáp lô đề bằng giấy màu đỏ trắng, đây là phương tiện, công cụ phạm tội của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án được chuyển theo hồ sơ vụ án.

[6] Đối với Bùi Văn L đã có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức mua số lô, số đề của Nguyễn Thị T ngày 16/12/2020 nhưng số tiền L sử dụng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, bản thân L chưa có tiền án, tiền sự về hành vi quy định tại Điều 321, 322 Bộ luật hình sự. Do vậy chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”,“ Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”, quy định tại Điều 321, 322 Bộ luật hình sự . Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Văn L là có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với người nhận bảng số lô, số đề của bị cáo Nguyễn Thị T, quá trình điều tra bị cáo T khai nhận có một người đàn ông tên Nam( không rõ địa chỉ) đến quầy bán xổ số của bị cáo nói với bị cáo T có ai hỏi ghi các số lô, số đề thì ghi rồi tổng hợp thành bảng và đến 18 giờ các ngày người này sẽ đến thu bảng và tính toán trả tiền hoa hồng cho bị cáoT sau. Do bị cáo T không biết địa chỉ người đàn ông trên nên không có cơ sở điều tra xác minh làm rõ.

[7] Án phí hình sự:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp án phí và quản lý sử dụng án phí. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị T; phạm tội “Đánh bạc”.

2. Điều luật và hình phạt Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ thời hạn tính từ ngày UBND phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo Nguyễn Thị T cho Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Khấu trừ 5% thu nhập của bị cáo Nguyễn Thị T trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị T 10.000.000đ ( mười triệu đồng)

3. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2, khoản 3, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu xung vào Ngân sách nhà nước số tiền 220.000 đồng sử dụng để đánh bạc hiện đang quản lý tại Kho bạc nhà nước tỉnh Ninh Bình theo Ủy nhiệm chi lập ngày 26 tháng 01 năm 2021 giữa Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

4. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp án phí và quản lý sử dụng án phí.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai các bị cáo, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a, 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sư.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

461
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về