Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị H và anh L

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ H VÀ ANH L

Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991 Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện T, tỉnh Thái Bình

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993 Nơi cư trú: Thôn M, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt chị H, vắng mặt anh L)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/9/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn L tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đên hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện P vào ngày 12/02/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh L. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến tháng 9/2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L chơi bời, không tu chí làm ăn, không quan tâm tới mẹ con chị. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 10/2018, vợ chồng ly thân từ đó cho tới nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh L không còn, chị xin ly hôn anh L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung Nguyễn Quỳnh A sinh ngày 06/6/2018, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 23 tháng 11 năm 2020, bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác định về thời gian, điều kiện và hoàn cảnh kết hôn và thời gian mâu thuẫn và thời gian vợ chồng ly thân như chị Nguyễn Thị H đã trình bày là đúng. Theo anh, vợ chồng không có gì mâu thuẫn, tháng 9/2018, chị H có đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở Thái Thụy chơi, đến tháng 02/2019, anh có sang tìm nL chị H không về cũng không đưa ra lý do tại sao, cũng từ đó đến nay vợ chồng ly thân nL thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H không còn nL anh không đồng ý ly hôn, trường hợp nếu chị H một mực xin ly hôn thì anh cũng nhất trí.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như chị Nguyễn Thị H đã trình bày là đúng. Nếu ly hôn, chị H chịu trách nhiệm nuôi dưỡng con chung, anh không cấp dưỡng cho con, còn nếu chị H không đồng ý thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh với cơ sở Thôn M, xã Q thấy: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng, cơ sở thôn không biết rõ, chỉ biết từ tháng 10/2018, đến nay chị H không sinh sống tại gia đình anh L nữa. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh L, cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị H và anh L có 01 con chung là Nguyễn Quỳnh Asinh ngày 06/6/2018, hiện đang ở với chị H. Nếu Tòa án giải quyết cho chị H và anh L ly hôn, về nuôi con và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung cơ sở thôn không biết rõ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nên Viện kiểm sát không có ý kiến về chấp hành pháp luật của bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn L; Về con chung: giao con chung Nguyễn Quỳnh A sinh ngày 06/6/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con, anh L được quyền thăm nom con chung; Về tài sản: không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Nguyễn Văn L, do anh L là bị đơn cư trú tại Thôn M, xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nL vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã Q, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 12 ngày 12/02/2018 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 9/2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không thương yêu thông cảm cho nhau, chị H cho rằng anh L không tu chí làm ăn, không quan tâm đến mẹ con chị H, mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 10/2018 vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh L không còn, chị xin ly hôn anh L, anh L cũng xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị H nL anh không đồng ý ly hôn, trường hợp chị H một mực xin ly hôn thì anh cũng đồng ý. Tòa án đã tiến hành hòa giải nL anh L vắng mặt, không có thiện chí giải quyết vụ án, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh L là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L có 01 con chung là Nguyễn Quỳnh Asinh ngày 06/6/2018. Ly hôn, chị H nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con, còn anh L có ý kiến nếu chị H nuôi con chung thì anh không phải cấp dưỡng cho con, chị H không đồng ý thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét nguyện vọng nuôi con của chị H thấy, hiện tại con chung đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng, lại dưới 36 tháng tuổi, chị H không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con nên cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình thực tế của con chung, cũng là đáp ứng dược nguyện vọng của các đương sự và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên về tài sản chung Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn L có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Nguyễn Quỳnh A sinh ngày 06/6/2018 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng cho con. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xét.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số 0004578 ngày 16 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung giữa chị H và anh L

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về