Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 27/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Toà án nhân dân huyện Sìn Hồ mở phiên toà xét xử công khai lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28 /2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo: Lò Văn L tên gọi khác: không; sinh năm: 1998; nơi sinh: huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: bản N H 2, xã N H, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: trồng trọt; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lò Văn Ư và Con bà Lò Thị G; Bị cáo chưa có Vợ, Con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15 tháng 4 năm 2020 đến ngày 24 tháng 4 năm 2020. Hiện Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại bản N H 2, xã N H, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 12/4/2020, Lò Văn L sinh năm 1998 đi bộ từ nhà mình ở bản N H2, xã N H, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để lên bản Nậm Lúc, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Trên đường đi L có xin đi nhờ xe máy của một người không quen biết đến bản Lùng Thàng, xã Lùng Thàng, huyện Sìn Hồ rồi tiếp tục đi bộ về phía bản Nậm Lúc, xã Phăng Sô Lin. Trên đường đi, Lò Văn L gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết, giới thiệu tên là S. L hỏi mua được của Sun 01 gói Heroine, bên ngoài được gói bằng nilon màu đen với số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng. Mua bán xong S đi đâu L không biết, còn L cầm gói Heroine vừa mua được đi bộ quay về, trên đường đi L lại xin đi nhờ xe máy của một người không quen biết về nhà.

Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 12/4/2020, khi về đến nhà, Lò Văn L chia số Heroine mua được thành 16 gói nhỏ, trong đó có 06 gói đều được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, còn 10 gói ngoài đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ và chữ đánh máy, sau đó cho 16 gói Heroine vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long, màu vàng, cất giấu dưới đệm giường ngủ mình, không cho ai biết, mục đích sử dụng dần. Hồi 15 giờ ngày 15/04/2020, Lò Văn L lấy từ số Heroine nêu trên ra 02 gói (bên ngoài đều được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh) rồi đi bộ ra ngã tư xã Noong Hẻo (là nơi tiếp giáp giữa 03 bản Noong Om, Noong Hẻo 2 và Ná Đon thuộc xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ) mục đích để tìm địa điểm sử dụng, trên đường đi thì bị Công an huyện Sìn Hồ, phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ trên tay trái của Lò Văn L là 02 gói Heroine.

Hồi 19 giờ ngày 15/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lò Văn L, quá trình thi hành lệnh khám xét khẩn cấp, Lò Văn L đã tự giác lấy số Heroine còn lại gồm 14 gói ra giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 20 ngày 16/4/2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc Trần Văn M kết luận: 02 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn L khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 0,07 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 176/GĐ-KTHS ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn L khi bắt quả tang gửi đến giám định là ma túy, loại: Heroine.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 21 ngày 16/4/2020 của người giám định tư pháp theo vụ việc Trần Văn M kết luận: 14 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn L khi khám xét khẩn cấp chỗ ở có tổng khối lượng là 0,63 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 175/GĐ-KTHS ngày 22/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng thu giữ của Lò Văn L khi khám xét khẩn cấp chỗ ở gửi đến giám định là ma túy, loại: Heroine.

Tại Bản cáo trạng số: 29/CT-VKS-SH ngày 10 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị cáo Lò Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm r, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét tịch thu, tiêu huỷ:

10 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ, có chữ đánh máy và 06 mảnh giấy có một mặt màu trắng, một mặt màu xanh là những vật L dùng để gói Heroine, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long, màu vàng, L dùng để đựng số Heroine, đây là vật chứng gói và đựng chất ma tuý.

Người bào chữa trình bày luận cứ bào chữa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ phát hiện bắt quả tang, bị cáo đã tự nguyện khai báo bị cáo còn tàng trữ trái phép 14 gói Heroine tại nhà ở, khi tiến hành khám xét khẩn cấp bị cáo đã tự giao nộp 14 gói Heroine cho Cơ quan điều tra Công an huyện Sìn Hồ; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên sự hiểu biết pháp luật của bị cáo còn có nhiều hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s, r khoản 1, khoản 2 điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; về hình phạt bổ sung: đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; về vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật; về án phí: theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Gia đình bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Lò Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, chứng cứ đã thu thập đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 15 tháng 4 năm 2020, tại bản Noong Hẻo 2, xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, Lò Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 16 gói Heroine có tổng khối lượng 0,7 gam, mục đích để sử dụng, thì bị Công an huyện Sìn Hồ phát hiện thu giữ.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của minh, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Lò Văn L là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến hình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ. Bị cáo nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật để giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự với lỗi cố ý trực tiếp.

Do đó, lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Lò Văn L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ phát hiện bắt quả tang, bị cáo đã tự nguyện khai báo bị cáo còn tàng trữ trái phép 14 gói Heroine tại nhà ở, khi tiến hành khám xét khẩn cấp bị cáo đã tự giao nộp 14 gói Heroine cho Cơ quan điều tra Công an huyện Sìn Hồ; Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước ta.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu và tiêu huỷ: 10 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ, chữ đánh máy và 06 mảnh giấy có một mặt màu trắng, một mặt màu xanh là những vật L dùng để gói Heroine; 01vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng, L dùng để đựng số Heroine. Đây là vật chứng gói và đựng chất ma tuý thu giữ của Lò Văn L đã qua sử dụng, vật chứng này không có giá trị sử dụng được ; Đối với 0,7 gam thu giữ của bị cáo Lò Văn L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ đã gửi giám định hết, mẫu vật gửi giám định không hoàn lại nên Hội đồng xét xử không xem xét:

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 c ủa Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về trách nhiệm của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú và những người liên quan:

Về nguồn gốc số Heroine đã thu giữ của Lò Văn L: Bị cáo khai nhận đã mua của một người đàn ông tên S khoảng 40 tuổi, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người đó là ai nên không có căn c ứ để khởi tố, điều tra, xử lý trong cùng vụ án này.

Đối với 02 người không rõ danh tính cho Lò Văn L đi nhờ xe, bị cáo không nói và những người này cũng không biết việc L đi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy nên không phải là đồng phạm với bị cáo L trong vụ án này.

Thông qua vụ án này, đề nghị cấp chính quyền địa phương xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ nơi bị cáo Lò Văn L đang cư trú cần nâng cao tuyên truyền, giải thích cho người dân có ý thức chấp hành tốt các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta để mỗi người dân am hiểu rõ về tác hại của các chất ma túy. Tăng cường đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy trên địa bàn và có các biện pháp giữ gìn trật tự an ninh trên địa bàn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s,r khoản 1, khoản 2 Điều 51 và 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn L, phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn L : 01(một) năm 08 (tám) tháng tù, được khấu trừ thời hạn tạm giữ 09 ngày, bị cáo còn phải chấp hành 01 (một) năm 07 (bảy) tháng 21 (hai mươi một ) ngày tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3.Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 10 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ, có chữ đánh máy và 06 mảnh giấy có một mặt màu trắng, một mặt màu xanh là những vật L dùng để gói Heroine, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng, L dùng để gói và đựng số Heroine không có giá trị sử dụng.

4. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27 tháng 6 năm 2020).

6. Về biện pháp ngăn chặn: Cấm bị cáo đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày tuyên án cho đến thời điểm bị cáo vào trại chấp hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 27/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về