Bản án 18/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 07/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2020/TLST- HS ngµy 16/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Văn Q, sinh năm 1971; nơi sinh và đăng ký HKTT: Thôn P1, xã M, huyện P, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Tất B và bà Thái Thị H; có vợ là Nguyễn Thị H1và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/12/2007 bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về Tội đánh bạc; tạm giữ ngày 05/5/2020; tạm giam ngày 08/5/2020 tại trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên “có mặt”.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vụ án: Anh Đặng Văn H2, sinh năm 1975; trú tại: Thôn T, xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt”.

- Người chứng kiến: Anh Lương T1, sinh năm 1975; trú tại: Thôn H3, xã T2, huyện P, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 30 phút ngày 05/5/2020, tổ tuần tra Công an huyện P, tỉnh Hưng Yên làm nhiệm vụ trên đường 386 đoạn qua địa phận thôn H3, xã T2, huyện P, tỉnh Hưng Yên đã phát hiện 02 nam thanh niên đang điều khiển xe mô tô hướng từ xã T2đi xã N có biểu hiện nghi vấn. Tổ tuần tra tiến hành dừng xe kiểm tra, 02 nam thanh niên lần lượt tự khai: Người điều khiển xe là Ngô Văn Q, sinh năm 1971; trú tại thôn P1, xã M, huyện P, tỉnh Hưng Yên và người ngồi sau xe là Đặng Văn H2, sinh năm 1975; trú tại thôn T, xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên. Quá trình kiểm tra, Ngô Văn Q tự móc từ túi quần bên trái phía trước Q đang mặc giao nộp 02 gói giấy bạc có cùng kích thước (01 x 01)cm bên trong có chứa chất bột màu trắng được niêm phong trong bì thư ký hiệu M1. Kiểm tra trên người Đặng Văn H2 không phát hiện đồ vật, tài sản gì. Thu giữ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Loncin, vỏ Honda Dream màu nâu trắng, biển số: 89F3- 6122 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Ngô Văn Q ở thôn P1, xã M, huyện P, tỉnh Hưng Yên không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan.

Tại bản kết luận giám định số: 140/MT-PC09 ngày 08/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,151 gam. Hoàn lại đối tượng giám định 0,134 gam mẫu giám định trong niêm phong ghi ký hiệu M1.

Kết quả điều tra Ngô Văn Q khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 05/5/2020 khi Q đang ở nhà thì có bạn là Đặng Văn H2 điều khiển xe mô tô biển số: 89F3- 6122 đến chơi và rủ đi mua ma túy về để sử dụng, Q đồng ý. H2 điều khiển xe mô tô biển số: 89F3- 6122 chở Q ngồi sau đi đến khu vực cầu T3 thuộc địa phận tỉnh Hải Dương. Tại đây, Q và H2 cùng đi đến một ngôi nhà ống, cửa xếp. H2 là người trao đổi trực tiếp hỏi mua ma túy Heroine với giá 200.000 đồng. H2 đưa 200.000 đồng cho người bán ma túy nhận tiền và đưa 02 gói ma túy cho H2 qua khe hở của cửa nhà nên H2 và Q không quan sát được đặc điểm nhận dạng của người bán ma túy. Sau khi mua được ma túy thì H2 và Q đi về, lúc này H2 vẫn là người điều khiển xe mô tô chở Q. Khi đi qua khu nghĩa trang vắng người không biết thuộc địa chỉ nào thì H2 dừng xe mô tô lại. Q và H2 đi vào trong nghĩa trang cùng sử dụng ma túy Heroine vừa mua được. Sau khi sử dụng ma túy xong Q là người điều khiển xe mô tô và cất giấu 02 gói ma túy chưa sử dụng hết vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long để trong túi quần bên trái phía trước Q đang mặc. Khi về đến cổng thôn H3, xã T2, huyện P, tỉnh Hưng Yên thì bị Công an huyện P phát hiện bắt quả tang.

Đặng Văn H2 thừa nhận vào sáng ngày 05/5/2020, H2 có đi xe mô tô biển số: 89F3- 6122 sang nhà Ngô Văn Q là bạn để chơi và được Q nhờ chở đi ra khu vực tỉnh Hải Dương có việc nhưng Q không nói rõ là việc gì. Khi đến khu vực cầu T3 thuộc tỉnh Hải Dương, Q bảo H2 xuống xe đợi, còn Q tự điều khiển xe mô tô đi đâu không rõ. Khoảng 05 phút sau quay lại, bảo H2 chở về. Khi đến một nghĩa trang vắng người không rõ địa chỉ nào, Q bảo H2 dừng xe để đi vệ sinh và Q đi vào trong nghĩa trang khoảng 10 phút thì quay ra. Sau đó cả hai tiếp tục đi về, lúc này Q là người điều khiển xe, khi về đến cổng làng H3, xã T2, huyện P thì bị lực lượng Công an huyện kiểm tra. Q tự lấy trong túi quần đang mặc 02 gói ma túy khai là Heroine nộp cho công an tiến hành niêm phong, khi đó H2 mới biết Q nhờ H2 chở đi mua ma túy.

Việc Q khai H2 là người rủ Q đi mua ma túy, bỏ tiền ra để mua ma túy và cùng sử dụng ma túy nhưng H2 không thừa nhận. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Q đối chất với H2 nhưng không làm rõ được việc H2 rủ Q đi mua ma túy và cùng sử dụng với H2, nên không có đủ căn cứ để xử lý đối với Đặng Văn H2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Cơ quan điều tra thu giữ quản lý 01 xe mô tô loại Loncin, vỏ xe Honda Dream màu sơn nâu trắng, biển số 89F3- 6122 xác định là tài sản của Đặng Văn H2; thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ của Ngô Văn Q; vật chứng là 02 gói nhỏ chứa chất màu trắng thu giữ của Q được niêm phong ký hiệu M1 đã được cơ quan điều tra trưng cầu giám định, kết luận là ma túy loại Heroine và hoàn lại mẫu vật sau giám định.

Tại Cáo trạng số: 17/CT-VKSPC ngày 15 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên truy tố Ngô Văn Q về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hưng Yên luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Q theo nội dung cáo trạng; đồng thời đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Văn Q từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn được tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

Biện pháp tư pháp: Trả lại cho anh Đặng Văn H2 01 xe mô tô loại Loncin vỏ xe Honda Dream, màu sơn nâu trắng, biển số 89F3- 6122; trả lại cho Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia cũ; tịch thu cho tiêu hủy mẫu vật ma túy trong phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định. Bị cáo Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Văn Q nhận tội, khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ mức hình phạt để cải tạo tốt, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Q và người có quyền lợi liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của Ngô Văn Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra có trong hồ sơ; đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của anh Đặng Văn H2 là bạn với Q khai nhận về việc Q nhờ H2 chở đi ra cầu T3 - Hải Dương, khi về đến đường 386 đoạn thuộc địa phận thôn H3, xã T2, huyện P bị Công an huyện P kiểm tra thì Q tự móc trong túi quần bên trái đang mặc có 02 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất màu trắng giao nộp cho Công an và khai đó là ma túy Heroine; lời khai của anh Lương T1 là người chứng kiến khi Công an huyện Phù Cừ kiểm tra Q và H2; các vật chứng thu giữ, kết luận giám định và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/5/2020 tại đường 386 thuộc địa phận thôn H3, xã T2, huyện P, tỉnh Hưng Yên, bị cáo Ngô Văn Q đang có hành vi cất giấu trái phép trong người 0,151 gam Heroine là chất ma túy để sử dụng thì bị Công an huyện P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Ngô Văn Q là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện như phân tích đã có đủ dấu hiệu cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Ngô Văn Q về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bản thân bị cáo năm 2007 đã phạm tội đánh bạc, bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo và đã được xóa án, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình mà lại đi vào con đường nghiện chất ma túy, nên đã đi mua ma túy để cất giấu sử dụng nhằm thỏa mãn cho ham muốn cá nhân. Hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của bản thân và gia đình, mà còn gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt phù hợp và cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và làm bài học răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét: Bị cáo Ngô Văn Q không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phạm tội bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều nhận tội, khai báo cơ bản thành khẩn và bị cáo có bố đẻ là thương binh + được thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Q là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6]. Biện pháp tư pháp:

- Số ma túy hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong là chất Nhà nước cấm, nên cho tịch thu tiêu hủy.

- 01 mô tô nhãn hiệu Loncin, vỏ Honda Dreame II, màu nâu trắng, biển số: 89F3- 6122 thu giữ của Đặng Văn H2 không liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã sử dụng, kết quả điều tra không có căn cứ chứng minh dùng vào việc phạm tội, nên giao trả lại cho bị cáo Q.

[7]. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn Q là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn Q phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày tạm giữ là ngày 05/5/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo Q.

Biện pháp tư pháp:

- Trả lại cho anh Đặng Văn H2, sinh năm 1975; trú tại: Thôn T, xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên 01 xe mô tô loại Loncin, vỏ xe Honda Dream II, màu sơn nâu trắng, biển số 89F3- 6122.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen đã qua sử dụng.

- Tịch thu toàn bộ mẫu vật ma túy Heroine trong phong bì niêm phong do cơ quan giám định hoàn lại, cho tiêu hủy.

(Chi tiết về chủng loại, số lượng, chất lượng, đặc điểm, tình trạng các vật chứng nêu trên được mô tả cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/7/2020 giữa Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).

Án phí: Bị cáo Ngô Văn Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hình sự.

Bản án sơ thẩm xét xử công khai có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi liên quan vụ án. Đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho người có quyền lợi liên quan vụ án biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 07/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về