Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về xin ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình, thụ lý số 73/2020/TLST-HNGĐ ngày 05/5/2020 về việc xin ly hôn, theo quyết định xét xử số 10/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 22B/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16/7/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 24B/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/8/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vừ Thị L - Sinh năm 1993; Trú tại: Bản H, xã P, huyện S, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Giàng Bả P - Sinh năm 1994; Trú tại: Bản H, xã P, huyện S, tỉnh Sơn La. Hiện đang chấp hành án tại trại giam Yên Hạ, Phù Yên, Sơn La.Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 4 năm 2020 và bản tự khai chị Vừ Thị Lý trình bày:

Chị và anh Giàng Bả P sống với nhau từ lâu nhưng đến năm 2014 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện S, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau tại bản H, xã P, huyện S, tỉnh Sơn La, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng tính cách không hợp nhau, không cùng nhau làm ăn kinh tế, anh P không quan tâm tới vợ con, thường xuyên chơi bời, rượu chè, hút hít ma túy dẫn tới tù tội. Chị và anh Giàng Bả P đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 cho tới nay. Chị xác nhận tình cảm vợ chồng không còn vì vậy chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn, chấm dứt tình trạng hôn nhân hiện nay.

Về con chung: Qua thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung là Giàng A T, sinh ngày 18/6/2009, khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục con chung đến đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Về vay nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, do anh Giàng Bả P đang phải chấp hành án tại Trại giam Yên Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Tòa án đã tiến hành ủy thác lấy lời khai, tống đạt những tài liệu, thông báo của Tòa án cho anh P. Anh P đã được nhận, có bản tự khai và có đơn đề nghị yêu cầu Tòa án huyện Sông Mã xét xử vắng mặt anh.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng; Quá trình xét xử Hội đồng xét xử đã tuân theo quy định của Pháp luật và các thủ tục. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật từ thời điểm thụ lý vụ án và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được tống đạt các thủ tục theo quy định và có đơn xin được xét xử vắng mặt. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị xử cho chị Vừ Thị L được ly hôn với anh Giàng Bả P; giao con chung là cháu Giàng A T, sinh ngày 18/6/2009 cho chị Vừ Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục con chung đến đủ 18 tuổi, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung không đề nghị giải quyết nên không xem xét trong vụ án này. Về án phí chị Vừ Thị L phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

n cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền, tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn đều có hộ khẩu thường trú tại bản H, xã P, huyện S, tỉnh Sơn La, do vậy Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La thụ lý, giải quyết là đảm bảo theo quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa do đang phải chấp hành án trong trại giam nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Dó đó, Tòa án giải quyết theo thủ tục chung và quyết định đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vừ Thị L và anh Giàng Bả P kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Pú Bẩu, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, căn cứ khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình xác định quan hệ hôn nhân của anh chị là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2017, hiện nay không còn quan tâm tới cuộc sống của nhau. Căn cứ vào Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy tình trạng hôn nhân của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc quyết định cho anh chị ly hôn là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Tại các tài liệu có trong hồ sơ chị Vừ Thị L đề nghị được trực tiếp nuôi con chung là cháu Giàng A T, sinh ngày 18/6/2009 và không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành ủy thác lấy lời khai của anh Giàng Bả P, tại bản tự khai anh P có đề nghị yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Pháp luật.

t thấy anh Giàng Bả P hiện đang phải chấp hành án trong trại giam nên không có khả năng nuôi con, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của cháu Giàng A T, cháu T có nguyện vọng là được ở cùng mẹ, nên cần chấp nhận nguyện vọng của cháu T và chị Vừ Thị L. Giao cháu Giàng A T cho chị Vừ Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, anh Giàng Bả P không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Vừ Thị L và anh Giàng Bả P đều khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đặt vấn đề giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Chị Vừ Thị L là nguyên đơn nên phải chịu toàn bộ án phí xin ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 19; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các Điều 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

n cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận khởi kiện xin ly hôn của chị Vừ Thị L đối với anh Giàng Bả P.

Xử cho chị Vừ Thị L được ly hôn anh Giàng Bả P.

2. Về con chung: Giao cháu Giàng A, sinh ngày 18/6/2009 cho chị Vừ Thị L trực tiếp, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của Pháp luật.

Anh Giàng Bả P không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Vừ Thị L, nhưng có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không được ai cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự đều khai nhận không có tài sản chung, nợ chung nên không đặt vấn đề giải quyết ở vụ án này.

4. Về án phí: Chị Vừ Thị L phải chịu án phí là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai số AA/2016/0004584 ngày 20 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Chị Vừ Thị L đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vừ Thị L và anh Giàng Bả P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về