Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 774/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2019 về “ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị M, sinh năm: 1995.

Địa chỉ: Thôn C, xã Th, thành phố P, tỉnh N (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1997.

Địa chỉ: Khu phố X, phường V, thành phố P, tỉnh N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn- Bà Phạm Thị M - trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T tự nguyện kết hôn, có tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 29 ngày 08 tháng 3 năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân phường V, thành phố P, tỉnh N. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà chồng ở thôn C, xã Th, thành phố P, tỉnh N. Đến tháng 7 năm 2019 thì bà và ông T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: vợ chồng có một con chung tên là Nguyễn Phạm Tr, sinh ngày 14 tháng 7 năm 2019, khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Bị đơn – ông Nguyễn Văn T- vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại nhà ông Nguyễn Văn T. Cha ruột ông là Nguyễn Th xác nhận ông T có biết việc Tòa án giải quyết ly hôn nhưng không tham gia tố tụng. Bà Phạm Thị M nộp cho Tòa án Đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân có xác nhận của BQL thôn C và BCH Hội phụ nữ xã Th.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Phạm Thị M và ông Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 29 ngày 08 tháng 3 năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân phường V, thành phố P, tỉnh N. Đây là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Phạm Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Riêng ông Nguyễn Văn T vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ các lý do chính đáng khác. Bà Phạm Thị M và ông Nguyển Văn T đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay, có xác nhận của BQL thôn C và BCH Hội phụ nữ xã Th.Ông Nguyễn Văn T không tham gia tố tụng dù đã được tống đạt hợp lệ, không thể hiện mong muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Vì vậy căn cứ vào điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị M.

[3] Về quan hệ con chung: Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Phạm Thị M giữ nguyên yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Phạm Tr, sinh ngày 14 tháng 7 năm 2019. Cháu Tr mới hơn 12 tháng tuổi, từ khi sinh ra đến nay cháu sống cùng với mẹ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà M. Bà M tiếp tục có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Phạm Tr. Ông T không có nghiã vụ cấp dưỡng nuôi con do bà M không yêu cầu.

Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, “trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu”, do đó bà M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào: Khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 4 điều 147, điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 56, điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Phạm Thị M được ly hôn ông Nguyễn Văn T.

Về quan hệ con chung:

Bà Phạm Thị M có quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Nguyễn Phạm Tr, sinh ngày 14 tháng 7 năm 2019. Ông Nguyễn Văn T không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Phạm Thị M không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu ông Nguyễn Văn T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà Phạm Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 002054 ngày 16 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P. Bà Phạm Thị M đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự hì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về