Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 22/06/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 6 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 411/202019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2019 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1956 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Hòa A, xã An Phú T, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Ông Võ Văn H, sinh năm 1955 (vắng có đơn).

Địa chỉ: Ấp Hòa A, xã An Phú T, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 12 năm 2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Trần Thị Đ trình bày: Bà và ông Hiếu chung sống với nhau vào năm 1976 không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống có 03 con chung tên Võ Văn Dĩ, sinh năm 1978, Võ Thị Sen, sinh năm 1984 và Võ Thị Cúc, sinh năm 1995 hiện nay đã trưởng thành.

Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc xin ly hôn là do tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cải, vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc do ông Hiếu đi uống rượu say về thường xuyên chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa và được địa phương nhiều lần nhắc nhở đồng thời làm tờ cam kết nhưng ông vẫn không sửa đổi tính tình, hôn nhân trầm trọng không thể kéo dài. Cách đây hơn 05 năm bà đã nộp đơn yêu cầu ly hôn đến Tòa án nhưng do ông Hiếu cam kết không đi uống rượu say về chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa nên bà đã rút đơn nhưng về nhà ông Hiếu vẫn không sửa đổi mặc dù bà có nhiều lần khuyên ngăn. Nay bà không còn tình cảm với ông Hiếu. Bà và ông Hiếu đã cất nhà ở riêng nhà ai người đó ở, không còn chung sống với nhau từ năm 2010 cho đến nay. Nay bà yêu cầu như sau:

Về hôn nhân: Bà Trần Thị Đ yêu cầu ly hôn với ông Võ Văn H. Về con chung: Đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về chia tài sản chung: Bà Đèo không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Bà Đèo khai bà và ông Hiếu không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Võ Văn H là bị đơn vắng mặt, có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt và có lời khai như sau: Ông thống nhất với lời trình bày của bà Đèo về thời gian chung sống, ông và bà Đèo chung sống với nhau vào năm 1976 mà không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống có 03 con chung tên Võ Văn Dĩ, sinh năm 1978, Võ Thị Sen, sinh năm 1984 và Võ Thị Cúc, sinh năm 1995 hiện nay đã trưởng thành.

Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc do ông thường xuyên đi uống rượu say về thì ông với bà Đèo có lời qua tiếng lại dẫn đến cự cải lớn tiếng, ông có chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa của bà Đèo và được địa phương nhiều lần nhắc nhở và làm tờ cam kết nhưng ông vẫn không sửa đổi. Cách đây hơn 05 năm bà Đèo đã nộp đơn yêu cầu ly hôn đến Tòa án nhưng do ông cam kết không đi uống rượu say về chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa nên bà Đèo đã rút đơn nhưng về nhà ông vẫn không sửa đổi mặc dù bà Đèo có nhiều lần khuyên ngăn. Ông và bà Đèo đã cất nhà ở riêng nhà ai người đó ở, không còn chung sống với nhau từ năm 2010 cho đến nay.

Nay bà Đèo yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý mà xin đoàn tụ lại để nuôi dạy con. Nếu phải ly hôn thì về con chung: Đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về chia tài sản chung: Ông Hiếu không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông Hiếu khai ông và bà Đèo không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng thì nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28; 35; 147; 273 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị Đ. Cho bà Trần Thị Đ được ly hôn với ông Võ Văn H.

Về con chung: Đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Bà Đèo và ông Hiếu không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

Về án phí: Bà Đèo là người cao tuổi nên được miễn án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Trần Thị Đ. Lời trình bày của các đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Ly hôn” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn trong vụ án là ông Võ Văn H có hộ khẩu thường trú tại huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại các Điều 35; 36 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Võ Văn H là bị đơn trong vụ án vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Võ Văn H.

[3] Về hôn nhân: Xét thấy, cả bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H đều khai nhận ông và bà chung sống vào năm 1976 nhưng không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật thì hôn nhân của bà Đèo và ông Hiếu được xác lập trước ngày 03/01/1987 nên được công nhận là hợp pháp.

Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến việc yêu cầu ly hôn là do bất đồng quan điểm sống, thường hay cự cải, ông Hiếu thường xuyên đi uống rượu say về chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa, bà Đèo và chính quyền địa phương nhiều lần nhắc nhở nhưng ông Hiếu vẫn không sửa đổi tính tình. Bà Đèo và ông Hiếu đã mạnh ai người đó sống không quan tâm lẫn nhau từ năm 2010 cho đến nay.

Tại phiên tòa hôm nay bà Đèo yêu cầu ly hôn với ông Hiếu nhưng ông Hiếu không thống nhất ly hôn mà yêu cầu đoàn tụ. Vấn đề này thấy rằng việc ông Hiếu yêu cầu được đoàn tụ là không có căn cứ. Bởi lẻ, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần hòa giải động viên bà Đèo và ông Hiếu tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Mặc khác, ông Hiếu cũng thừa nhận là vợ chồng có bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, thường hay cự cải, do ông Hiếu thường xuyên đi uống rượu say về chửi bới thô tục, đập phá nhà cửa, bà Đèo và chính quyền địa phương nhiều lần nhắc nhở nhưng ông Hiếu vẫn không sửa đổi. Từ khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án ông Hiếu cũng không có đến gặp bà Đèo để trao đổi xin được đoàn tụ cho thấy ông Hiếu không có thiện chí đoàn tụ. Đồng thời ông Hiếu cũng không đưa ra được giải pháp để đoàn tụ. Từ đó, xét thấy mâu thuẫn giữa bà Đèo và ông Hiếu đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được cho nên bà Đèo yêu cầu ly hôn với ông Hiếu là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H đều khai các con chung là Võ Văn Dĩ, Võ Thị Sen và Võ Thị Cúc đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H khai không có nên Tòa án không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Trần Thị Đ là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn nộp tiền án phí nên được miễn án phí hôn nhân sơ thẩm.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên được chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28; 35; 36; 39; 147; 271; 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51; 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Đ. Cho bà Trần Thị Đ được ly hôn với ông Võ Văn H.

Về con chung: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H đều khai các con chung là Võ Văn Dĩ, Võ Thị Sen và Võ Thị Cúc đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

Về tài sản: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H không yêu cầu nên không xem xét.

Về nợ chung: Bà Trần Thị Đ và ông Võ Văn H khai không có nên không xem xét.

Về án phí: Bà Trần Thị Đ là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn nộp tiền án phí nên bà Đèo được miễn án phí hôn nhân sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bà Trần Thị Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Võ Văn H vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 22/06/2020 về ly hôn

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về