Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 18/02/2020 về tranh chấp ly hôn, con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Trong các ngày 17, 18 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1310/2019/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tú T, sinh năm 1986. (có mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Diễm P, sinh năm 1982. (có mặt) Thường trú: Ấp 3, xã L, huyện T, tỉnh Long An Địa chỉ (tạm trú): Ấp 4, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 4 tháng 12 năm 2019 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tú T trình bày: Chị và anh Huỳnh Diễm P chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài, đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh Huỳnh Diễm P.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Huỳnh Khả T, sinh ngày 16/5/2013, con đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, Chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Huỳnh Diễm P trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị Tú T về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn và con chung. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do chị T đi làm về muộn, anh có thái độ khó chịu và thường nói nhiều với chị T, lâu ngày dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt từ tháng 02 năm 2019 đến nay chưa hàn gắn được. Nay chị T xin ly hôn, anh không đồng ý, vì mâu thuẫn vợ chồng còn có thể khắc phục được.

Về con chung: Trong trường hợp ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con chung là Huỳnh Khả T, sinh ngày 16/5/2013, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh chị không có tạo lập tài sản chung gì, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, chị T kiên quyết ly hôn nên anh P đồng ý ly hôn, nhưng vẫn giữ yêu cầu được nuôi con chung.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Tú T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Diễm P; anh P hiện đang tạm trú tại ấp 4, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn có mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn vắng mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng, căn cứ Điều 267 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tuyên đọc bản án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tú T và anh Huỳnh Diễm P chung sống với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, chị T và anh P phát sinh mâu thuẫn. Chị T cho rằng tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên kiên quyết ly hôn với anh P. Ngược lại anh P cho rằng mâu thuẫn vợ chồng còn có thể khắc phục được nên không đồng ý ly hôn.

Xét thấy, chị T trình bày trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Anh P cũng xác nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn và rạn nứt tình cảm từ tháng 02 năm 2019 đến nay. Từ khi phát sinh mâu thuẫn (tháng 02 năm 2019) đến nay và tại phiên tòa, anh P cũng không tìm ra được biện pháp nào để vợ chồng đoàn tụ, trong khi chị T xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh P nên kiên quyết yêu cầu ly hôn. Mặt khác, từ ngày Tòa án tiến hành hòa giải cho đến nay, chị T và anh P vẫn chưa giải quyết được những mâu thuẫn phát sinh, anh P cũng không tìm ra được phương hướng đoàn tụ, cho thấy dù đã cố gắng nhưng anh chị không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Tại phiên tòa, chị T vẫn kiên quyết giữ yêu cầu ly hôn nên anh P đồng ý ly hôn, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của anh P.

Từ những phân tích trên, thấy rằng hôn nhân giữa chị T và anh P đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh P là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Chị T và anh P thống nhất có 01 con chung tên Huỳnh Khả T, sinh ngày 16/5/2013. Khi ly hôn, chị T và anh P đều có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy, chị T và anh P đều có công việc và thu nhập ổn định có thể nuôi dưỡng và đảm bảo cuộc sống cho con chung, tuy nhiên từ nhỏ đến nay con chung sống chung với chị T và ông bà ngoại; quá trình chăm sóc con chung, chị T và gia đình vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung; mặt khác con chung là con gái, cần sự chăm sóc, gần gũi với mẹ hơn. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định của con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2, 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị T không yêu cầu anh P cấp dưỡng đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh P thống nhất trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tú T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 267, 273, 483, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tú T đối với anh Huỳnh Diễm P về việc “Ly hôn”.

Chị Nguyễn Thị Tú T được ly hôn với anh Huỳnh Diễm P.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Tú T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 01 con chung tên Huỳnh Khả T, sinh ngày 16/5/2013. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị T không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tú T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004329 ngày 11/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai. Chị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Huỳnh Diễm P vắng mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng nên căn cứ khoản 1 Điều 273, anh P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 18/02/2020 về tranh chấp ly hôn, con chung

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về