Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân thụ lý số: 87/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/7/2020 về “Tranh chấp ly hôn, tài sản”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/8/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Duy T, sinh năm 1996 (Có mặt).

Nơi cư trú: ấp G, xã V, huyện V, tỉnh Long An.

Bị đơn: Bà Lâm Thị Nh, sinh năm 1994 (Có đơn xin vắng mặt).

HKTT: ấp G, xã V, huyện V, tỉnh Long An. Nơi cư trú: ấp C, xã T, huyện V, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo của nguyên đơn, ông Lê Duy T trình bày:

Được sự đồng ý của gia đình hai bên, ông và bà Lâm Thị Nh có tổ chức lễ cưới và chính thức sống chung với nhau tháng 9 năm 2019, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T ngày 05/11/2019. Sau khi cưới, ông và bà Lâm Thị Nh về sinh sống tại ấp G, xã V, huyện V. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, tuy nhiên thời gian sau ông và bà Nh phát sinh mâu thuẫn về việc sinh con nên hai bên xảy ra cự cải, mâu thuẫn nhau. Ngoài ra, bà Nh không quan tâm chăm sóc gia đình làm cho tình cảm vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 2020, bà Nh tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột sống ly thân cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm giữa ông và Nh không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Lâm Thị Nh.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, ông và bà Lâm Thị Nh chưa có con chung.

Về tài sản: Trong thời gian sống chung, ông có mua cho bà Nh một chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ. Khi làm đơn ly hôn, ông có yêu cầu bà Lâm Thị Nh trả lại ông số tài sản trên. Tuy nhiên, tại phiên tòa xét xử vụ kiện, ông xin rút lại yêu cầu trên, không yêu cầu Tòa án giải quyết phần tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ.

Về nợ chung: Ông và bà Lâm Thị Nh không có nợ chung.

Bị đơn bà Lâm Thị Nh có đơn xin vắng mặt tại Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ kiện, tại biên bản lấy lời khai ngày 27/7/2020, trình bày:

Về hôn nhân: Bà không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Lê Duy T vì bà còn tình cảm với ông Lê Duy T.

Về con chung: Bà và ông Lê Duy T không có con chung.

Về tài sản: Bà không đồng ý trả lại ông Lê Duy T chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ theo yêu cầu của ông T.

Về nợ chung: Bà và ông Lê Duy T không có nợ chung.

Vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên Tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Duy T, cụ thể: Về hôn nhân: Ông Lê Duy T được ly hôn với bà Lâm Thị Nh ; Về tài sản: Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của ông Lê Duy T, yêu cầu bà Lâm Thị Nh trả lại tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Lâm Thị Nh có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ kiện. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đương sự.

[2] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 16/7/2020, ông Lê Duy T có đơn yêu cầu Toà án nhân dân huyện Vĩnh Hưng chấp nhận cho đương sự được ly hôn với bà Lâm Thị Nh. Đây là vụ án Hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Do bà Nh cư trú tại huyện Vĩnh Hưng, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Nguyên đơn ông Lê Duy T yêu cầu được ly hôn với bà Lâm Thị Nh vì nhận thấy rằng mâu thuẫn giữa ông và bà Nh không thể giải quyết, tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ vợ chồng không có, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét, hôn nhân giữa ông Lê Duy T và bà Lâm Thị Nh có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện V cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 05/11/2019 đây là hôn nhân hợp pháp, sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Xét thấy, nguyên đơn ông Lê Duy T yêu cầu được ly hôn với bà Lâm Thị Nh. Ngược lại, bị đơn bà Lâm Thị Nh không đồng ý ly hôn với ông Lê Duy T. Mặt dù, bà Lâm Thị Nh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu ly hôn của ông Lê Duy T nhưng bà Nh lại không đến Tòa án theo giấy triệu tập để đưa ra biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng xem như bà không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân với ông T. Do đó, ông Lê Duy T yêu cầu Hội đồng xét xử cho ông được ly hôn với bà Lâm Thị Nh là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nuôi con chung: Trong quá trình chung sống, ông Lê Duy T và bà Lâm Thị Nh không có con chung nên Hội đồng xét xử xét không đề cặp xem xét.

[5] Về tài sản: Tại phiên tòa xét xử vụ kiện, ông Lê Duy T xin rút lại phần yêu cầu tranh chấp tài sản với bà Lâm Thị Nh đối phần tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ. Xét, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét đình chỉ giải quyết phần yêu cầu này của ông Lê Duy T.

[6] Về nợ chung: Trong quá trình chung sống, ông Lê Duy T và bà Lâm Thị Nh không có nợ chung nên Hội đồng xét xử xét không đề cặp xem xét.

[7] Án phí: Ông Lê Duy T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 217, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 51, 56 và Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn, tranh chấp tài sản giữa ông Lê Duy T với bà Lâm Thị Nh.

1/ Về hôn nhân: Ông Lê Duy T được ly hôn với bà Lâm Thị Nh.

2/ Về tài sản: Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu của ông Lê Duy T, yêu cầu bà Lâm Thị Nh trả lại tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo và 01 dây chuyền vàng 18kara trọng lượng 1,3 chỉ.

3/ Về án phí: Ông Lê Duy T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0002608 và 0002610 ngày 21/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng, hoàn trả lại ông Lê Duy T 300.000 đồng.

Các bên đương sự được quyền kháng cáo xét xử phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn, tài sản

Số hiệu:18/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về