Bản án 18/2020/DS-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp hợp đồng cấp tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 18/2020/DS-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẤP TÍN DỤNG

Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2020/TLST - DS ngày 06 tháng 02 năm 2020, về tranh chấp hợp đồng dân sự cấp tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 6 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2020/QĐST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần T.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần T: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: Tổng Giám đốc; là người đại diện theo pháp luật.

Địa chỉ: phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Thái B, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng TMCP T - Chi nhánh Kiên Giang.

Địa chỉ: phường Vĩnh Thanh V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Theo Giấy ủy quyền số 1789A/2019/GUQ-PL ngày 11/6/2019.

Người đại diện hợp pháp của người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Trường Th, chức vụ: Trưởng phòng giao dịch H.

Địa chỉ: khu phố M, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Theo Giấy ủy quyền số 634/GUQ-CNKG ngày 20/7/2020 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trương Quốc T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: khu phố H, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2019 và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Mai Trường Th trình bày: Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng của ông Trương Quốc T ký ngày 26/5/2017. Ngày 31/5/2017 Ngân hàng Thương mại Cổ phần T đồng ý phê duyệt cấp hạn mức tín dụng cho ông Trương Quốc T số tiền gốc 25.000.000 đồng; lãi suất tại thời điểm cấp thẻ là 2,5%/tháng; mục đích cấp: tiêu dùng cá nhân; thời hạn trả hàng tháng theo thông báo của Ngân hàng.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch từ ngày 30/6/2017 đến ngày 31/7/2019 với tổng số tiền là 50.093.020 đồng.

Ngày 01/8/2019 Ngân hàng chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến hết ngày 20/7/2020 ông T còn nợ Ngân hàng các khoản gồm:

- Nợ gốc: 25.394.576 đồng.

- Lãi quá hạn: 11.268.843 đồng.

- Tổng cộng: 36.663.419 đồng.

Đại diện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T yêu cầu ông Trương Quốc T trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T tổng số nợ là 36.663.419 đồng; trong đó: Nợ gốc 25.394.576 đồng và lãi quá hạn 11.268.843 đồng. Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

Tại phiếu yêu cầu xác minh ngày 18/02/2020 Công an phường P, thành phố P cung cấp cho biết: Ông Trương Quốc T, sinh năm 1983 có hộ khẩu thường trú tại khu phố H, phường P, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Ông Trương Quốc T đi khỏi nơi cư trú không có trình báo tạm vắng với cơ quan Công an. Ông Trương Quốc T vắng mặt tại nơi cư trú từ ngày 22/02/2019 cho đến nay không rõ làm gì, ở đâu.

Đại diện nguyên đơn ông Mai Trường Th có ý kiến tranh luận: Tôi yêu cầu Tòa án buộc ông T phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn T số nợ gốc và lãi suất như đã trình bày nói trên, vì ông T vi phạm hợp đồng cấp thẻ tín dụng.

Bị đơn ông Trương Quốc T vắng mặt: (không có ý kiến thể hiện việc tranh luận).

Ý kiến của Viện kiểm sát: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các bên đương sự từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần T đối với ông Trương Quốc T. Buộc ông Trương Quốc T trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T tổng số tiền là 36.663.419 đồng; trong đó nợ gốc là 25.394.576 đồng và lãi quá hạn là 11.268.843 đồng. Buộc ông Trương Quốc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Giao dịch do Ngân hàng Thương mại Cổ phần T đối với ông Trương Quốc T xác lập từ việc vay tiền. Phát sinh tranh chấp trên địa bàn thành phố P, nơi bị đơn là ông Trương Quốc T cư trú, nên xác định đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự cấp tín dụng. Thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố P thụ lý giải quyết được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Việc tranh chấp sau khi được Tòa án thụ lý giải quyết đã tiến hành các trình tự về thủ tục tố tụng; mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai tài liệu, chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, do bị đơn ông Trương Quốc T được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng cố tình vắng mặt, nên việc hòa giải không tiến hành được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; đồng thời, Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho ông T biết theo quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Đảm bảo sự có mặt tham gia xét xử của đại diện Viện kiểm sát và trình bày ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm. Không xem xét yêu cầu phản tố do bị đơn không có yêu cầu.

[3] Việc bị đơn ông Trương Quốc T được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt ông T tại phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Xét việc vay nợ là do hai bên tự nguyện thỏa thuận xác lập hợp đồng với đối tượng vay là tiền đồng Việt Nam được phép giao dịch trên thị trường; hình thức hợp đồng bằng văn bản; thỏa thuận về thời hạn trả nợ gốc và lãi suất; phù hợp với những quy định tại điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 15/01/2018; các điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

[5] Quan hệ pháp luật tranh chấp chính trong vụ án là do ông Trương Quốc T không trả được nợ gốc và lãi theo kỳ hạn hàng tháng. Tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng phê duyệt ngày 31/5/2017 Ngân hàng Thương mại Cổ phần T cấp hạn mức tín dụng cho ông Trương Quốc T số tiền gốc 25.000.000 đồng và thỏa thuận các khoản lãi suất trong hạn và quá hạn. Tính đến hết ngày 20/7/2020 ông T còn nợ Ngân hàng Thương mại Cổ phần T tổng số tiền 36.663.419 đồng; trong đó: Nợ gốc là 25.394.576 đồng và lãi quá hạn là 11.268.843 đồng.

Tại khoản 2 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 15/01/2018 quy định: “Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật.”. Tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự” và tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn;…”. Như vậy, Ngân hàng Thương mại Cổ phần T quyết định việc khởi kiện ông Trương Quốc T do vi phạm hợp đồng tín dụng; không trả được nợ vay khi đến kỳ hạn trả nợ là hoàn toàn đúng với các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nghị cần buộc ông Trương Quốc T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T nợ gốc và lãi quá hạn theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng đã giao kết thì mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

[6] Về án phí: Ông Trương Quốc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch đối với giá trị tài sản có tranh chấp là 1.833.170 đồng (36.663.419 đồng x 5% = 1.833.170 đồng). Trả lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T là 738.825 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 95 và điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng cấp tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần T đối với ông Trương Quốc T.

Buộc ông Trương Quốc T phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T tổng số tiền là 36.663.419 đồng (Ba mươi sáu triệu, sáu trăm sáu mươi ba nghìn, bốn trăm mười chín đồng); trong đó: nợ gốc là 25.394.576 đồng và lãi quá hạn 11.268.843 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay (ông Trương Quốc T) còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay (ông Trương Quốc T) phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc ông Trương Quốc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.833.170 đồng (Một triệu, tám trăm ba mươi ba nghìn, một trăm bảy mươi đồng).

Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 738.825 đồng (Bảy trăm ba mươi tám nghìn, tám trăm năm hai mươi lăm đồng) theo biên lai thu tiền số 0004909 ngày 06/02/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P, tỉnh Kiên Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/DS-ST ngày 20/07/2020 về tranh chấp hợp đồng cấp tín dụng

Số hiệu:18/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về