TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 18/2019/HSPT NGÀY 31/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 31/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 244/2018/TLPT-HS ngày 06/12/2018 đối với bị cáo Lâm Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 82/2018/HSST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
* Bị cáo:
Họ và tên: Lâm Văn T, sinh năm 1964; nơi sinh: xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: thôn R, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: lớp 6/10; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; giới tính: nam; con ông Lâm Văn N (đã chết) và con bà Hoàng Thị S (đã chết); có vợ: Phùng Thị T (đã ly hôn) và có 03 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: tại Bản án hình sự số 19/HSST ngày 25/11/1991 củaTòa án nhân dân huyện Lục Ngạn xử phạt Lâm Văn T 06(sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; hiện tại ngoại (có mặt).
Ngoài ra vụ án còn có người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 ngày 14/4/2018 Lâm Văn T, sinh năm 1964, trú tại thôn R, xã K, huyện L đến nhà anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1982, trú ở cùng thôn chơi và ăn cơm uống rượu tại đó. Sau khi ăn cơm xong thì T và anh N cùng nhau hát Karaoke. Khoảng 23 giờ cùng ngày thì cả hai thôi không hát nữa, T đi sân nhà anh N lấy xe mô tô của mình để đi về nhà, lúc này anh N đi ra theo. Khi ra gần đến chỗ T dựng xe mô tô, giữa T và anh N có lời qua tiếng lại về việc nộp tiền tảo mộ. Sau đó anh N quay người đi vào trong nhà, còn T mở cốp xe mô tô lấy con dao nhọn có cán bằng gỗ, chiều dài 29 cm, cán dao dài 10 cm, bản dao phần giữa rộng 05 cm để ở đó từ trước rồi cầm đi theo anh N. Khi anh N đi vào trong nhà đóng cửa xếp lại (chưa khóa) và quay người đi vào trong nhà để cất Micrô thì T mở cửa ra rồi dùng dao đâm từ phía sau 01 nhát vào vùng ngang lưng phải của anh N, anh N bị đau quỳ gối xuống nền nhà và quay người lại thì T tiếp tục dùng dao đâm liên tiếp 02 nhát vào phần bụng (hố chậu trái) của anh N làm anh N bị thương chảy máu. Anh N đứng dậy và chạy vào trong nhà gọi vợ là chị Phùng Thị N, sinh năm 1983 dậy đưa đi cấp cứu, còn T cầm dao đi ra xe mô tô về nhà. Sau đó, chị N và người thân trong gia đình đã đưa anh N đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực huyện L nhưng do thương tích nặng nên anh N được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang điều trị đến ngày 23/4/2018 được ra viện về nhà.
Cùng ngày 14/4/2018, khi được mời đến Công an xã K làm việc, T đã khai nhận về hành vi dùng dao đâm gây thương tích cho anh Nguyễn Văn N và tự nguyện giao nộp 01 con dao nhọn có cán bằng gỗ, có tổng chiều dài con dao là 29cm, phần chuôi dao dài 10 cm, bản dao phần giữa rộng 05 cm là con dao T đã dùng để gây thương tích cho anh N. Khi thu giữ được niêm phong dán kín trong tờ giấy trắng có chữ ký của những người tham gia.
Hồi 23 giờ 30 ngày 14/4/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn tiến hành khám nghiệm hiện trường. Hiện trường được xác định tại nhà ở của gia đình anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1982, trú tại thôn R, xã K, huyện L. Từ hiện trường nhìn ra các hướng như sau:
Phía Bắc tiếp giáp nhà ở của gia đình anh Phùng Văn H;
Phía Nam là vườn cây của gia đình ông Nguyễn Văn S;
Phía Đông là đường trải nhựa liên xã Kiên Thành đi xã Hộ Đáp; Phía Tây là công trình phụ của gia đình anh Nguyễn Văn N.
Tại vị trí trước cửa nhà anh Nguyễn Văn N, trên nền nắp cống thoát nước bằng bê tông có chất bám dính màu đỏ, dạng nhỏ giọt, kích thước 1m20x2,5cm, được đánh ký hiệu số 1. Từ mép đường đến đầu vết máu là 40cm, cuối vết máu cách mép cửa kim loại là 1m20. Tâm vết máu cách cột điện phía nam nhà anh N là 6m10.
Tại vị trí trong cửa nhà cách mép cửa kim loại 30cm có đám máu màu đỏ nghi máu, kích thước (137x108)cm, được đánh dấu ký hiệu số 2. Tâm vết máu cách đầu vết được đánh dấu ký hiệu số 1 là 3m, cách tường nhà phía nam là 5m.
Trên nền nhà cách dấu vết được đánh dấu ký hiệu số 2 hướng từ ngoài vào trong 03m có chất màu đỏ dạng nhỏ giọt đứt đoạn nghi là máu, kích thước 7mx2,5cm, chiều từ trong ra ngoài, được đánh dấu ký hiệu số 3. Đầu vết ký hiệu số 3 cách mép tường phía nam là 3m70, cuối vết ký hiệu số 3 cách tường phòng ngủ phía nam của gia đình nhà anh N là 1m70.
Song song với dấu vết được ký hiệu số 3 là đám chất màu đỏ, dạng nhỏ giọt ghi là máu, chiều từ trong ra ngoài, kích thước (110x1)cm, được đánh dấu ký hiệu số 4. Tâm dấu vết ký hiệu số 4 đến mép tường phía nam là 5m40, cách mép cửa kim loại cửa sau nhà là 3m90.
Cách tâm dấu vết ký hiệu số 4 hướng từ trong ra phía cửa sau nhà có đám chất màu đỏ, dạng nhỏ giọt, kích thước(70x20)cm, chiều từ trong ra ngoài, được đánh dấu ký hiệu số 5. Tâm dấu vết ký hiệu số 5 đến mép tường phòng ngủ phía nam là 2m60, cách mép cửa phụ là 2m20.
Tại phần sau nhà và bậc lên xuống cửa phụ có đám chất màu nâu đỏ nghi là máu, kích thước (110x70)cm, được ký hiệu số 6. Tâm dấu vết ký hiệu số 6 đến mép tường phòng ngủ phía nam là 2m60, cách tâm dấu vết số 5 là 1m50.
Tại vị trí trước cửa phòng ngủ trước bậc sàn phòng ngủ trên nền sàn xi măng có chất màu đỏ, dạng nhỏ giọt nghi là máu, kích thước 1m40x50cm, chiều từ trong ra ngoài, được đánh dấu ký hiệu số 7. Tâm dấu vết ký hiệu số 7 đến tường nhà phía tây là 1m20, cuối dấu vết ký hiệu số 7 đến đầu dấu vết ký hiệu số 5 là 1m30, đến đầu dấu vết ký hiệu số 6 là 1m70. Cạnh dấu vết ký hiệu số 7 là 01 chiếc dép nhựa màu hồng loại dép nữ bên trái, trên dép có bám dính chất màu đỏ nghi là máu.
Tại vị trí cửa phòng ngủ trên sàn nhà được ốp gạch màu trắng có đám chất màu nâu đỏ nghi là máu, kích thước (170x90)cm, được đánh dấu ký hiệu số 8. Từ tâm vết có vết mài trượt hướng từ trong ra ngoài. Tâm dấu vết ký hiệu số 8 đến mép tường phía nam của phòng ngủ là 2m30, đến tường phía đông là 2m40.
Chiếc ghế màu xanh có dán mác Song Long có bám dính chất màu đỏ nghi là máu, kích thước (40x20)cm, chiều từ trên xuống dưới, được ký hiệu số 9. Dấu vết ký hiệu số 9 cách mép tường phía nam phòng ngủ là 2m80. Quá trình khám nghiệm hiện trường thu giữ các mẫu vật nghi là máu tại các vị trí được đánh dấu ký hiệu lần lượt là số 2, 6, 8, 9 và được niêm phong theo quy định.
Tại giấy chứng nhận thương tích số 51/CNTT ngày 03/7/2018 của Bệnh viện đa khoa khu vực huyện L và biên bản làm việc với bác sỹ xác định anh Nguyễn Văn N vào viện lúc 23 giờ 28 phút ngày 14/4/2018 đến 00 giờ 15 phút ngày 15/4/2018 ra viện. Tình trạng thương tích lúc vào viện: đau nhiều vết thương, vết thương phức tạp vùng hố thận phải sau lưng dài 7- 8cm, sâu 2cm, do lúc đó bệnh nhân thương tích nặng chảy nhiều máu nên bác sỹ không để ý còn thương tích gì khác hay không.
Tại giấy chứng nhận thương tích do Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang cấp ngày 11/5/2018 xác định anh Nguyễn Văn N vào viện lúc 01 giờ 00 phút ngày 15/4/2018 đến ngày 23/4/2018 ra viện. Tình trạng thương tích lúc vào viện: 01 vết thương vùng ngang lưng phải, kích thước (08x05)cm ngang mức L1 cách cột sống 03cm; 02 vết thương vùng hố chậu trái, kích thước lần lượt là (05x02)cm và (04x02)cm.
Ngày 22/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ra Quyết định trưng cầu giám định số 124/CSĐT đối với thương tích của anh Nguyễn Văn N? con dao đã thu giữ được niêm phong gửi giám định có gây nên được các thương tích của anh N không? Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8258/18/TgT ngày 24/5/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang, kết luận:
- Thương tích vết sẹo vùng hố chậu trái, kích thước (4,5x0,2)cm: 2%.
- Thương tích vết sẹo vùng hố chậu trái, kích thước (6,5x0,2)cm: 2%.
- Thương tích vết sẹo vùng lưng và vết sẹo mổ dẫn lưu: 4%.
Căn cứ bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành theo Thông tư số 20/2014/TT BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 08% (Tám phần trăm).
- Cơ chế, vật gây thương tích: Các thương tích của anh Nguyễn Văn N ở trên do vật sắc nhọn gây nên.
- Chiều hướng gây thương tích:
+ 02 vết sẹo vùng hố chậu trái của anh N có chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải.
+ Vết sẹo vùng lưng có chiều từ sau ra trước.
- Con dao nhọn mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang gửi giám định gây được các thương tích ở trên cho anh N.
- Các thương tích không ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
- Trong giám định pháp y không sử dụng thuật ngữ “Cố tật” mà chỉ xác định phần trăm tổn thương cơ thể do di chứng vết thương, chấn thương gây ra tại thời điểm giám định.
Ngày 07/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ra Quyết định trưng cầu giám định số 117/CSĐT yêu cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang giám định các vật chứng nghi là máu đã thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường đã được niêm phong và mẫu máu thu giữ của anh Nguyễn Văn N?.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 681/KL-PC5 ngày 29/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:
- Mẫu máu của Nguyễn Văn N được niêm phong gửi giám định thuộc nhóm máu B.
- Trên các mẫu vật được niêm phong trong các phong bì thư có ghi Mẫu máu số 2, Mẫu máu số 6, Mẫu máu số 8 và Mẫu máu số 9 gửi giám định đều có máu người, nhóm máu B.
Ngày 07/6/2018, anh Nguyễn Văn N đã có đơn đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn khởi tố bị cáo đối với Lâm Văn T về hành vi gây thương tích cho anh.
Ngày 27/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 157/CSĐT yêu cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang giám định trên con dao do Lâm Văn T giao nộp đã được niêm phong gửi giám định có máu không? Nếu có là máu người hay máu động vật? mẫu máu thu giữ của anh Nguyễn Văn N được niêm phong gửi giám định thuộc nhóm máu gì. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 897/KL-PC5 ngày 16/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:Trên con dao được dán kín niêm phong gửi giám định có máu người, nhóm máu B. Mẫu máu của Nguyễn Văn N đã được kết luận tại Kết luận giám định số 681/KL-PC54 ngày 29/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang tại phần V, mục 5.1.
Qúa trình điều tra Lâm Văn T khai 02 vết thương ở hố chậu bên trái của anh N là do T dùng dao chém ngang từ phải qua trái vào ngang bụng, sau đó anh N quay mặt đi T cầm dao tay phải đâm từ sau ra trước vào vùng ngang lưng phải của anh N. Anh Nguyễn Văn N khai 01 vết thương ở vùng ngang lưng hố chậu bên phải là do T dùng dao đâm anh từ phía sau anh N đau quá ngồi quỵ gối xuống, anh N quay người lại, T dùng dao đâm 2 nhát vào vùng hố chậu trái của anh. Ngày 14/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn đã tiến hành thực nghiệm điều tra cho Lâm Văn T diễn tả lại hành vi dùng dao gây thương tích cho anh Nguyễn Văn N theo lời khai của Lâm Văn T và theo lời khai của anh Nguyễn Văn N.
Ngày 27/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 158/CSĐT yêu cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang giám định cơ chế hình thành các thương tích của anh Nguyễn Văn N? Các thương tích của anh Nguyễn Văn N phù hợp với trường hợp thực nghiệm điều tra theo lời khai của Lâm Văn T hay Nguyễn Văn N.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8345/18/TgT ngày 18/7/2018 Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận:
Cơ chế gây thương tích: Các thương tích do vật sắc nhọn gây nên. Chiều hướng gây thương tích:
+ 02 vết sẹo vùng hố chậu trái của anh N có chiều hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải.
+ Vết sẹo vùng lưng có chiều hướng từ sau ra trước.
- Theo tình huống thực nghiệm điều tra thì các dấu vết thương tích của anh Nguyễn Văn N phù hợp với trường hợp thực nghiệm điều tra theo lời khai của anh Nguyễn Văn N. Không phù hợp với trường hợp thực nghiệm điều tra theo lời khai của Lâm Văn T. Cụ thể vết thương tích ở vùng ngang lưng phải của anh Nguyễn Văn N phù hợp với cả hai trường hợp thực nghiệm điều tra theo lời khai của anh N và T; 02 vết thương tích ở vùng hố chậu trái của anh N phù hợp với trường hợp thực nghiệm điều tra theo lời khai của anh Nguyễn Văn N.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2018/HSST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
1/ Tuyên bố: Bị cáo Lâm Văn T phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.
2/ Điều luật áp dung: Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; Điều 38 Điểm i, s khỏan 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Lâm Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, phần án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 29/10/2018, bị cáo Lâm Văn T kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị giảm mức hình phạt tù.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lâm Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị giảm mức hình phạt tù với lý do án sơ thẩm xử phạt bị cáo là nặng, bị hại đã đánh bị cáo trước và bị hại chỉ bị anh hưởng đến sức khỏe là 8%, bị cáo muốn có điều kiện chữa bệnh, bị cáo chỉ còn một mình trong gia đình còn phải hương khói bố mẹ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Lâm Văn T đã được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự là kháng cáo hợp pháp được chấp nhận để xem xét vụ án theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Khoảng 23 giờ ngày 14/4/2018, tại gia đình anh Nguyễn Văn N chỉ do có mâu thuẫn đơn giản trong việc nộp tiền tảo mộ, Lâm Văn T có hành vi dùng dao nhọn có chiều dài 29cm, chuôi dao dài 10 cm, bản dao phần giữa rộng 05 cm đâm 01 nhát vào lưng và 02 nhát vào vùng bụng (hố chậu trái), gây thương tích cho anh Nguyễn Văn N gây tổn hại 08% sức khỏe.
Hành vi của Lâm Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, có đơn yêu cầu khởi tố của bị hại. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Lâm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.
Bị cáo đã bị kết án về tội Cố ý gây thương tích nhưng không lấy đó lài bài học mà lại tiếp tục phạm tội Cố ý gây thương tích chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục, coi thường tính mạng sức khỏe của người khác cần phải xử lý nghiêm. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ, rất nguy hiểm, phải chịu hai tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là đã có sự khoan hồng cho bị cáo, mức hình phạt này không nặng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo đã bị kết án lại tiếp tục phạm tội nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” ở điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng không đúng cần rút kinh nghiệm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Văn T và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm:
Áp dụng điểm a, i khoản 1 ĐiÒu 134; Điểm s khỏan 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Lâm Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo Lâm Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 18/2019/HSPT ngày 31/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 18/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về