Bản án 18/2019/DS-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 18/2019/DS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 38/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 về việc “ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1996

Địa chỉ: Xóm 7, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An “có mặt”

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1985

Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 16/4/2019, tại bản tự khai ngày 21/6/2019 và tại phiên tòa chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh T yêu nhau với tình yêu tự nguyện không bị ai ép buộc và hai người kết hôn vào ngày 16/02/2006 tại UBND xã N. Bước đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng trong cuộc sống hai bên không hợp nhau, thường phát sinh mâu thuẫn về vấn đề kinh tế, tiền bạc, mâu thuẫn quá trầm trọng không thể hòa giải được. Vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi khi gặp nhau nên hai người sống ly thân từ tháng 6 năm 2016 đến nay. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng cách sống hai bên vẫn cứ bất đồng không hòa hợp với nhau được. Nay tình cảm không còn nên chị có nguyện vọng được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung của vợ chồng: Chị và anh Nguyễn Minh T có một con chung là Nguyễn Thế Đ, sinh ngày 30/12/2016, sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con, về phần cấp dưỡng yêu cầu anh T đóng góp theo quy định.

Về tài sản chung của vợ chồng: Hai người không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá đã thụ lý vụ án và tiến hành giải quyết vụ án và tạo điều kiện để các bên cung cấp chứng cứ. Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng chỉ có mặt chị Trần Thị H vắng mặt anh Nguyễn Minh T nên không tiến hành hòa giải được.

Ngày 05/7/2019 Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa đã tiến hành xác minh tại nhà bà Nguyễn Thị V, trú tại thôn P, xã Đ, huyện T là mẹ của anh Nguyễn Minh T. Bà V cho biết anh Nguyễn Minh T có hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã Đ, huyện T, hiện nay anh T đang đi làm ăn và sinh sống ở miền nam nên không có mặt tại địa phương, gia đình không biết rõ địa chỉ cụ thể của anh T. Sau khi nhận được thông báo thụ lý và các giấy triệu tập của Tòa án gửi cho anh T, gia đình đều báo cho anh T biết nhưng do điều kiện nên anh T không về giải quyết được và anh T có đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Minh T kết hôn với nhau vào ngày 16/02/2006 hoàn toàn tự nguyện và hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng bước đầu hạnh phúc nhưng được một thời gian thì xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thiếu tin tưởng nhau. Vì mâu thuẫn kéo dài và không có biện pháp để khắc phục nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay.

Xét thấy trong thời gian sống ly thân cả hai người đều không quan tâm và không liên lạc với nhau nên việc dàn xếp mâu thuẫn là khó khăn. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên nguyện vọng xin ly hôn của chị Trần Thị H là có căn cứ. Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Minh T không hợp tác nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xử chị Trần Thị H được ly hôn vắng mặt anh Nguyễn Minh T.

[2] Về con chung của vợ chồng: Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Minh T có một con chung tên là Nguyễn Thế Đ, sinh ngày 30/12/2016. Xét thấy hiện tại con còn nhỏ và sinh sống với chị H từ trước đến nay nên nguyện vọng được nuôi con của chị H là phù hợp. Về mức cấp dưỡng nuôi con thì hiện nay anh T đang làm lao động tự do nên buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng là hợp lý.

Vì vậy cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Thế Đ, sinh ngày 30/12/2016 cho chị Trần Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Minh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng kể từ tháng 9 năm 2019 đến khi con trưởng thành.

[3] Về tài sản chung của vợ chồng: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, anh Nguyễn Minh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

[5] Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu ý kiến về việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án của Thẩm phán và Thư ký đã tuân theo các quy định của pháp luật và tại phiên toà Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ và đảm bảo quyền lợi của đương sự theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

Đi diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xử chị Trần Thị H được ly hôn vắng mặt anh Nguyễn Minh T; về con chung áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con cho chị Trần Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Minh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con. Các bên phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử chị Trần Thị H ly hôn vắng mặt anh Nguyễn Minh T.

2. Về nuôi con chung của vợ chồng: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Thế Đ, sinh ngày 30/12/2016 cho chị Trần Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Minh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) kể từ tháng 9 năm 2019 đến khi con đủ 18 tuổi.

Kng ai được ngăn cản việc đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, khi cần thiết vì lợi ích của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung của vợ chồng: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, chị Hiền đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003774 ngày 17/4/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hoá nay được khấu trừ.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Minh T phải chịu 300.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Tuyên bố các bên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 15/8/2019. Đối với bị đơn vắng mặt thời hạn trên tính từ ngày niêm yết bản án nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/DS-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:18/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về